Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1377578

CẨM NANG NHÀ TRUYỀN GIÁO

CẨM NANG NHÀ TRUYỀN GIÁO- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các môn đệ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồM. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”1.

  1. Hành trang Tông đồ

Hành trang đi đường chỉ là:  cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Chuyến đi nào cũng cần đến những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa sứ vụ.

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận vướng với của cải đất đai sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị, không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa. Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn bó với của cải vật chất, người Tông đồ trở nên thanh thản lên đường bất cứ lúc nào. Không bận vướng những thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi hoặc làm chùn bước tới, người Tông đồ học sống tinh thần phó thác để chỉ biết đợi chờ tất cả nơi một mình Thiên Chúa.

Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có tất cả. Bởi hành trang đích thực của họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những kẻ được sai đi 2.

Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc biệt nữa. Đó là các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

  • Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

  • Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.

  • Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.

Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động Tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

  1. Phương thức hoạt động Tông đồ.

 Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động Tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá về tình huynh đệ khi nhận ra mình được sai đi “từng hai người một”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Như thế, Tông đồ là người lên đường chứ không phải xuống đường. Lên đường là một tinh thần nhạy cảm của Tin Mừng được thể hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ. Nhạy cảm với những thao thức của thời đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là điểm sáng của giới luật yêu thương, đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất. Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là, nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng nhân 3.

  1. Sứ vụ Tông đồ là sống chứng nhân

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai lần rằng, phương thức thứ nhất để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x. số 21 và 41).

Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng cả khi người ta chưa nói hay không thể nói, chưa làm hay không thể làm một số điều nào đó, thì người ta đã có thể sống điều mình xác tin và muốn chia sẽ.

Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng cuộc sống, bằng hành động cụ thể là một cách rao giảng thầm lặng, không nghe được, nhưng thấy được và rất hữu hiệu, nhất là đối với con người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay (thời của khoa học thực nghiệm và của óc thực tiễn), người ta nhạy cảm với việc làm và dị ứng với lời nói và các học thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư, thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”.

Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí… Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ … Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui,như người tìm được viên ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.(Manna).

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C

ANH EM HÃY RA ĐI – Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh em hãy ra đi”(Lc10,3).

  1. Bài Tin Mừng hôm nay không có gì khó hiểu. Thánh Luca cho chúng ta biết: Chúa Giêsu đã không chỉ sai các tông đồ tức nhóm 12 được tuyển chọn mà còn sai cả nhóm môn đệ nữa. Thánh Luca đã nói đến con số 72. Khi nói đến con số 72 Luca đã ngầm cho mọi người hiểu rằng đó là cả loài người. Lý do Luca làm thế là vì theo Sách Sáng thế đoạn 10 thì số 72 là số dân của cả loài người.

Vâng đúng như thế anh chị em. Công đồng Vaticano II long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết : “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).

Sách Giáo Lý Mới (1270, 2472) nói: “Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh” (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23). Như vậy mọi người chúng ta đều có trách nhiệm trong cánh đồng truyền giáo của Chúa.

  1. Chúng ta  phải hiểu truyền giáo hôm nay như thế nào?

Một điều chắc chắn là việc truyền giáo hôm nay không còn như ngày xưa trước đây. Nhìn lại việc truyền giáo cách đây khoảng vài trăm năm trướn đây, các từ “việc truyền giáo” (mission), “nhà truyền giáo” ( missionary ) còn rất quen thuộc với chúng ta. Ra đi đến những vùng đất xa lạ để truyền đạo vẫn là ước mơ, là lý tưởng của nhiều thanh niên Âu Tây. Họ muốn tiếp bước Phan-xic-ô Xa-vi-ê, Matteo Ricci, Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ ) … bỏ lại tất cả tài sản, đời sống tiện nghi, người tình xinh đẹp… đến với các dân tộc chậm tiến như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… để loan báo Tin Mừng, đem ánh sáng văn minh và văn hoá phương Tây cho các dân tộc ấy.

   Việc truyền giáo như thế hôm nay hôm nay đối với chúng ta không còn phù hợp nữa. Chúng ta không có thể nhân danh bất cứ ai, dù là Thiên Chúa, hay bất cứ điều gì, như là nền văn minh hay một ý thức hệ nào đó, để bắt ép người khác theo đường lối (đạo) của mình. Công Đồng Vatican II đã yêu cầu trong Tuyên Ngôn về Tự do Tôn giáo phải tôn trọng niềm tin của anh chị em theo các tôn giáo khác như Phật giáo, Hồi giáo, Cao Đài….

Truyền giáo ngày nay trước hết, là giới thiệu Đức Giê-su và Tin Mừng của Ngài, cho người nghe tự khám phá Đức Giê-su để yêu Ngài và con đường tình yêu của Đức Giê-su để đi theo con đường đó. 72 môn đệ được Đức Giê-su sai đi chính là để chuẩn bị cho Đức Giê-su, giới thiệu Đức Giê-su.

Quả thật, nếu chúng ta tin Đức Giê-su là đường, là sự thật, là sự sống, là tình yêu, thì bất cứ ai tôn trọng sự thật, bảo vệ sự sống của mình hay của người khác một cách chính đáng, yêu thương một cách chân thành và trong sáng đều là những người đang đi theo con đường của Đức Giê-su, đang theo “đạo” của Ngài, dù có thể họ chưa bao giờ được rửa tội. Chúng ta đừng quá bận tâm đến bí tích rửa tội bằng nước mà chúng ta muốn thực hiện cho họ. Chúng ta hãy để ý giúp họ gặp gỡ và đi theo Đức Giê-su để được rửa bằng lửa khát khao Ngài trong lòng họ.

Mẹ thánh Têrêsa nói: “Phải làm sao cho mọi người thấy rằng chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả; bởi thế thật quan trọng để mọi người được đối xử cách bình đẳng trước Thiên Chúa. Tôi luôn luôn nói rằng chúng ta phải giúp người theo Ấn giáo trở nên một tín đồ Ấn giáo tốt lành hơn, một người Hồi giáo trở nên một tín đồ Hồi giáo tốt lành hơn, một người Công giáo trở nên một tín đồ Công giáo tốt lành hơn. Chúng tôi cố không giảng đạo, nhưng chỉ tỏ cho thấy đức tin của chúng tôi qua hành động và sự phục vụ.”Chúng tôi tin rằng công việc của mình phải là gương mẫu cho dân chúng”.

Hãy sống thế nào để cho mọi người biết sống như Chúa Giêsu đã sống và nếu không sống được như thế thì cuộc sống sẽ trở nên bất hạnh như thế nào.

Một bá tước người Anh đến thăm quần đảo Fuji. Vốn là một người vô tín, bá tước nầy nói với người tù trưởng già cách mỉa mai rằng:

– Ông là một đại lãnh tụ, nhưng thật tội nghiệp vì ông để cho mấy vị giáo sĩ ngoại quốc nầy lừa dối. Ngày nay nào còn ai tin vào Kinh thánh nữa đâu. Người ta đã chán nghe câu chuyện về Đấng Kitô chết thay tội lỗi nhân loại trên thập tự giá rồi. Tôi thật tiếc các ông quá dại khi tiếp nhận câu chuyện của họ.

Đôi mắt vi tù trưởng lóe sáng. Ông trả lời :

– Ông có nhìn thấy tảng đá lớn ngoài kia không? Chúng tôi đã đập nát đầu kẻ thù của chúng tôi trên đó. Còn lò lửa kế bên nữa, tại đó chúng tồi đã nướng thịt họ. Nếu không nhờ những vi giáo sĩ rất tốt, và tình thương của Chúa Giêsu đã biến đổi chúng tôi từ tình trạng ăn thịt người đến danh phận làm con cái Đức Chúa Trời, thì chắc ông không còn sống mà rời khỏi đây. Tốt hơn là ông nên cảm tạ Đức Chúa Trời về Tin Lành vì nhờ đó ông không còn dùng làm thịt cho chúng tôi. Nếu không nhờ Kinh Thánh, thì bây giờ ông đang ở trong bụng chúng tôi rồi đấy. (NVDCBG).

Hãy làm cho mọi người biết được Tin Mừng của Chúa Giêsu, biết Chúa Giêsu là Ai, Ngài đã sống như thế nào để họ có thể nói được như mẹ thánh Têrêsa

Với tôi, Chúa Giêsu là tất cả:

Chúa Giêsu là sức sống tôi muốn sống;

Ngài là ánh sáng tôi muốn chiếu tỏa;

Ngài là đường tôi đi về nhà Cha,

Là tình yêu tôi muốn tỏ tình,

Là niềm vui tôi muốn chia sẻ,

Là hạt giống an bình, tôi gieo rắc.

Sống được như thế cuộc sống của con người trên thế giới hôm nay được hạnh phúc và tốt đẹp hơn.

Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông tên là ALIX, mới ngoài 50 tuổi, nhưng bị bất toại chân tay không thể làm gì được. Mỗi buổi sáng trước khi đi làm, vợ ông thường đặt ông trên một chiếc ghế bành, và ông phải vất vả lắm mới có thể lật giở từng trang sách đọc cho qua ngày. Mặc dù, ông không phải là người Công Giáo, nhưng cha sở thỉnh thoảng vẫn đến nhà thăm ông; và tiếp đó, Ngài đã lôi kéo được nhiều người trong xứ đạo đến giúp ông.

Mỗi ngày thứ năm trong tuần còn có một bác sỹ trẻ tuổi tình nguyện  đến chăm sóc cho bệnh tình của ông; và mỗi Chúa nhật, có một nhóm trẻ em vẫn đến nhà ông chơi. Các em giúp ông lật sách, đọc truyện cho ông nghe, bưng nước, đốt thuốc, kể những mẩu chuyện vui ở trường, và làm cho ông bớt cảm thấy cô đơn.

Năm ấy, gần Lễ Giáng Sinh, Ông xin Cha sở cho ông rước lễ. Cha sở tỏ vẻ ngạc nhiên, bởi vì ông ta đã theo đạo bao giờ đâu, nhưng ông ta nói:

– Thưa Cha, trước đây con không tin vào Chúa. Nhưng từ ngày con được Cha đến thăm, được bác sỹ săn sóc và được các trẻ em đến giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Chúa mới có thể làm cho Cha, Bác sỹ và các em tỏ tình thương âu yếm đối với con như vậy thôi!

Thế rồi, mùa Giáng Sinh năm ấy ông được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Giải Tội và được rước Chúa lần đầu tiên. Ông còn sống được thêm một năm nữa, sống một cách gương mẫu nhẫn nại. Chịu khó trong vui tươi, can đảm và sau cùng, ông đã chết trong bình an của Chúa!

home Mục lục Lưu trữ