Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1376643

CAO VỜI KHÔN VÍ

Cao vời khôn ví - JM. Lam Thy ĐVD.

Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN 24 TN-C. Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giê-su Ki-tô: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước đó, cũng đám kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thắc mắc như vậy và đã được Đức Giê-su trả lời thẳng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31-32). Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia; nên lần này Đức Giê-su không trả lời thẳng vào thắc mắc của họ, mà kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”.

Dụ ngôn thứ nhất nói về con chiên lạc đàn. Đối với chiên cừu thì những con đi hai bên cạnh hoặc ở cuối đàn thường hay bị lạc bầy, lạc đàn. Lý do chiên bị lạc thường chỉ vì đồng cỏ phía trước mặt đã bị những con chiên đi trước ăn trụi, chỉ còn ở hai bên mới có cỏ, vì thế nên mải mê với những bãi cỏ non xanh, quên mất hoặc không nghe được tiếng chủ chăn, lạc xa bầy đàn. Chủ chăn với tấm lòng nhân hậu, thương đàn chiên như con cái, khi kiểm diện nếu thấy có chiên bị lạc, thì dù chỉ có một con trong tổng số cả trăm con, chắc chắn sẽ bằng mọi cách tìm lại con chiên lạc ấy. Và khi tìm được, sẽ vác nó trên vai đem về với sự vui mừng hân hoan khôn tả và mời mọi người đến "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Dụ ngôn kết bằng Lời Đức Giê-su: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 4-7).

Đến dụ ngôn thứ hai nói về người phụ nữ có 10 đồng quan, đánh mất một đồng, liền thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm, và khi tìm được thì mời hàng xóm láng giềng lại để "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 8-10). Thực tế, có thể không có trường hợp tương tự như người phụ nữ trong dụ ngôn. Mất có một đồng quan, tiếc của, tìm cho kỳ được thì có thể; nhưng mời xóm giềng lại chung vui thì hơi quá! Tuy nhiên phải hiểu đây là một dụ ngôn, mà đã nói đến dụ ngôn (ví ngầm) là muốn nói đến cái ngụ ý ẩn trong câu chuyện kể hiện thực. Cụ thể hơn, đó là cách dùng con vật (chiên, cừu), hoặc vật chất (đồ dùng, tiền bạc) để nói về con người. Ca dao hay truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu những ngụ ngôn dùng cách này. Đức Ki-tô đã kết lụân dụ ngôn này rất rõ ràng: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

Cuối cùng, dụ ngôn thứ ba (Lc 15, 11-32) kể lại chuỵên một người có hai đứa con trai. Khi được chia gia tài thì người con thứ hai đã chứng tỏ mình là một “phá gia chi tử” (người con phá nhà) bằng cách “thu góp tất cả (phần tài sản được chia) rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi đã nhẵn túi, anh ta mới “Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều), đến cám heo cũng không có mà ăn, liền hồi tâm và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu ("Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”).

Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được, nhưng đến như mất một đồng quan mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ đàn chiên, người chủ đồng tiền hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.

Như vậy là đã rõ: con chiên lạc, đồng tiền bị mất hay đứa con hoang đàng cũng chỉ là hình ảnh phản ánh trong muôn một bản tính con người trần thế. Kể từ khi Nguyên tổ loài người sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị, đã kéo theo hệ luỵ cho con cháu đến muôn đời muôn kiếp, để tội lỗi trở nên như một bản tính cố hữu. Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không.

Đối với chủ con chiên bị lạc, chủ đồng tiền bị mất hay người cha của đứa con hoang đàng, thì luôn luôn và mãi mãi vẫn rất vui mừng khi tìm lại được con chiên, tìm thấy đồng bạc hoặc đứa con biết ăn năn sám hối trở về. Người chủ, người cha ấy đối với những cảnh “đã lạc, đã mất nay lại tim thấy, đã chết nay lại sống” luôn tỏ ra bao dung độ lượng với tấm lòng nhân hậu vô bờ bến. Đó chỉ có thể là Thiên Chúa với Tình Yêu vô lương dành cho con người. Một minh hoạ sống động cho cảnh “người con đã chết nay lại sống”, là chính tác giả bài đọc 2 trong Thánh lễ CN hôm nay: Thánh Phao-lô với biến cố Đa-mat (Cv 9, 1-19).

Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hũu Ti-mô-thê đã bày tỏ rõ ràng sự vui mừng mà Đức Giê-su Thiên Chúa ban cho ngài. Thánh nhân chân thành cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã được đón nhận cách lạ lùng lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa không thương xót thánh nhân, thì Phao-lô suốt đời chỉ là Sao-lô, một biệt phái rất thông thái nhưng đã tiêm nhiễm giáo lý sai lạc của Do-thái giáo, sống với não trạng và thái độ kỳ thị, chỉ có mình và “phe ta” là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa, còn những kẻ khác (thuộc nhóm “theo Ki-tô”) thì không xứng đáng và cần diệt đi. Sao-lô đã là một con chiên không những lạc bầy mà còn a dua theo sói dữ quay lại mưu toan hãm hại chủ chiên và cả đàn chiên (lùng bắt Ki-tô, sát hại những người theo Ki-tô).

Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Sao-lô đã sai lầm về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em. Lòng Thương xót của Chúa không vì thế mà bị suy giảm, trái lại càng tăng trưởng mãnh liệt, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Và với biến cố Đa-mát, Đức Giê-su Thiên Chúa đã làm cho một kẻ đã chết là Sao-lô được sống lại thành Phao-lô Tông đồ kiệt xuất. Thánh nhân khẳng định chắc nịch: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 15-16).

Người Ki-tô hữu hôm nay rất cần thiết nhìn lại mình xem có phải mình cũng cách nào đó giống Sao-lô hoặc những biệt phái, Pha-ri-sêu… với cái não trạng hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết “săm soi người” mà không biết “xét tật mình”. Từ đó, sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành, cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Hãy cầu nguỵên xin cho được cùng chết đi với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Người. Hãy cùng với Thánh Phao-lô dâng lời tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.” (1Tm 1, 17).

Ôi! Lạy Chúa! “Cao vời khôn ví, tình yêu của Chúa cao vời khôn ví, tình yêu của Người, con lấy gì, Chúa ơi, đền đáp cho cân, Chúa ơi, con lấy gì đền đáp cho cân (là đền đáp cho cân). TK: Thương con thủa rất xa vời (là vời), từ khi chưa chưa có (í-a) mặt trời, (trăng) mặt trăng. Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, một niềm son sắt son.” (TCCĐ “Cao vời khôn ví”). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.

 

47. Một người cha có hai con trai – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Tin Mừng không phải là một đồng bằng, nhưng có những đỉnh cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Luca 15,11-32. Người ta nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa Giêsu làm nổi bật ba nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người con thứ, những cuộc phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung phí món quà cuộc đời khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu. Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều nói điều đó. Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.

“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.

Đây chính là mặc khải đáng ngạc nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao! Nhưng dại dột và thậm chí những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này: “Cậu ấy lại được tìm thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa yêu thương đến thế? Có phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người con cả với chúng ta nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau khi nghe những lời đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này tiếp đón những kẻ tội lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y như lời lẩm bẩm của người con cả! Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm bực mình.

Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng bị dồn vào thế bí, cũng đóng kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở rộng vòng tay. Nhưng tôi thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả, thì đạo đức dùng để làm gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?

Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội lỗi, lên án sự vô trật tự, chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ! Chính Thiên Chúa là Đấng chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng cách tỏ ra cứng rắn!

Như thế thì làm thế nào mà mở rộng vòng tay được? Làm thế nào bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn toàn điên rồ của ông, đó là tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?

Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của người cha trước tiên là tình yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu hỏi về những thái độ công chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề nếp như thế nào. Điều cấp bách nhất chính là yêu thương.

Chúng ta, những người công chính, muốn là những người công chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những điều cần thiết, giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất cả đều khá rõ ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.

Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những người công chính vào thời của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ: khởi đi từ sự công chính, họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương, nhưng họ vẫn ở trong những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong cũng những giới hạn đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội lỗi!”, họ nghĩ như thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung chúng ta chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm chí lại tốt cho chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người kia đâu!, xem nào! Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu thương họ được.

Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không có ai bị loại bỏ, rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của Ngài. Và chúng ta là những người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt mình vào trong tình yêu thương.

Chúng ta không nên chấp nhận tất cả, chúng ta phải chiến đấu chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng làm những điều đó trong tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu thương chúng ta Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến đấu tội lỗi nơi chúng ta, không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.

Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt được suy tư Tin Mừng trong sáng duy nhất này: luôn luôn đặt mình trong tình yêu. Khi tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.

Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều có thể trở về lại sự sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã chết mà nay vẫn còn sống!”.

 

48. Chứng từ của lòng sám hối

Trong bộ sưu tập về các vẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chđợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua hđã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.

Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.

 

49. Huyền nhiệm yêu thương - Trầm Thiên Thu

Tình yêu của con người (tình mẫu tữ, tình phụ tử, tình phu thê, tình bạn, tình láng giềng,…) chỉ là tình yêu phàm tục, thế mà chúng ta còn khó lý giải xác đáng, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

“Tình yêu thương con người là tài sản quý giá nhất” (tục ngữ Ả Rập). Tình yêu chân chính không xói mòn theo thời gian và cũng chẳng biến đổi theo hoàn cảnh. Tình yêu luôn huyền diệu, tính túy và thuần khiết, không biến động theo ý muốn của chúng ta. Có thể ví tình yêu như chiếc đồng hồ cát có hai ngăn, ngăn lý trí và ngăn trái tim, ngăn này đầy thì ngăn kia trống.

Mẹ Thánh Teresa Calcutta (1910-1997) nói về tình yêu với những lời giản dị mà sâu sắc: “Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình. Chúng ta hãy luôn gặp nhau với nụ cười, bởi nụ cười là điểm bắt đầu của yêu thương. Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa. Những lời tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng thực sự vĩnh cửu. Điều chúng ta cần là yêu mà không mệt mỏi. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu”.

Giáo hội Công giáo đã long trọng tuyên thánh cho Mẹ Teresa ngày 4-9-2016. Mẹ là một phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có trái tim vĩ đại khả dĩ chứa đựng cả thế giới. Ngay khi còn sinh thời, Mẹ đã nổi tiếng khắp thế giới về lòng nhân hậu, đến nỗi Australia tỏ lòng kính phục Mẹ nên đã làm tem in hình Mẹ Teresa, sản xuất tháng 10-2015, ghi nhớ dịp Mẹ được chính phủ tặng Huân Chương năm 1982. Mẹ Teresa đã đến Australia 12 lần, Việt Nam cũng được diễm phúc đón Mẹ 3 lần (tháng 9/1991, tháng 11/1993, tháng 4/1994). Mẹ đã đến nhà thờ Thanh Đa – TGP Saigon, nhà thờ Thái Hà – Bắc Việt, và một số nơi khác).

Tình yêu thương là một huyền nhiệm – huyền bí và mầu nhiệm, nghĩa là chúng ta không tài nào hiểu thấu với trí tuệ phàm nhân. Tuy không hiểu thấu và không thể có một định nghĩa trọn vẹn, nhưng ai cũng khả dĩ thể hiện và cảm nhận. Thật là kỳ diệu biết bao!

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã chứng tỏ Lòng Thương Xót với dân Ít-ra-en, nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Thiên Chúa phải nói thẳng với ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập’. Đức Chúa lại phán với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (Xh 32:7-11).

Thương mới cho roi vọt, thương mới sửa trị, thương mới nói tới, nhưng người ta thường cảm thấy khó chịu. Đó là cứu vớt, đó là thương xót. Ngược lại, không thương thì mặc kệ, không cần quan tâm, muốn ra sao thì sao, nhưng người ta không biết rằng như vậy mới đáng sợ. Đó là lòng thương xót bị làm ngơ, không được đáp lại.

Tuy nhiên, ông Môsê thân thưa: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (Xh 32:13). Quả thật, “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32:14). Điều này chứng tỏ rằng lời cầu nguyện của người khác là điều cần thiết đối với chúng ta, và việc cầu nguyện cho người khác rất hiệu quả.

Trước khi được Trời cứu thì phải tự cứu mình, trước khi được người khác cầu thay nguyện giúp thì phải biết chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).

Ai cũng là tội nhân, không ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện liên lỉ, sám hối không ngừng, ăn năn không ngớt luôn là điều cấp bách và cần phải kiên trì: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).

Cầu nguyện liên lỉ là cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, ngay khi mở mắt thức dậy và khi nhắm mắt nghỉ ngơi: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Có nhiều cách ca tụng Thiên Chúa, không nhất thiết phải nói ra bằng lời. Càng tội lỗi càng phải tín thác vào Thiên Chúa, vì tội nhân là “đối tượng” số một của Lòng Chúa Thương Xót. Vả lại, “ở đâu tội lỗi đã tràn lan thì ở đó ân sủng càng chan chứa gấp bội” (Rm 5:20). Vấn đề quan trọng là ĐỪNG NẢN CHÍ hoặc TUYỆT VỌNG. Hãy tin tưởng vào sự thật minh nhiên này: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19).

Mỗi người có một ơn gọi riêng, tất cả là để vinh danh Thiên Chúa mà thôi. Trong thư gởi cho ông Timôthê (1 Tm 1:12-17), ông Phaolô cho biết cách suy nghĩ của ông về ơn gọi của mình, đồng thời cũng là lời tự thú của ông:

“Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người để được sống muôn đời”.

Rất chân thành, và cũng rất can đảm. Chúng ta cũng phải can đảm thú nhận, đừng tránh né, đừng bao che, đừng giấu giếm, đừng biện hộ. Càng chân thành thì càng được giải án tuyên công. Đó là huyền nhiệm của tình yêu thương, là huyền nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót, hãy giữ vững niềm tín thác vào Thiên Chúa! Tại sao? Bởi vì Ngài tuyệt đối từ bi và nhân hậu: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20). Kinh Thánh cho thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vô cùng huyền nhiệm!

Trình thuật Lc 15:1-32 trình bày ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Con Chiên Bị Mất” (tương đương Mt 18:12-14), “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” và “Người Cha Nhân Hậu”.

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đúng là lắm chuyện!

Đức Giêsu đặt vấn đề với họ: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai, về nhà rồi mời thân hữu đến chung vui vì ông đã tìm được con chiên thất lạc. Ngài nói với họ: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

Ngài nói với họ dụ ngôn khác về một phụ nữ có mười đồng quan và đánh mất một đồng. Bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, bà mời thân hữu cùng chia vui vì bà tìm được đồng quan đã mất. Rồi Ngài xác định rằng, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

Hai con số đối lập: một đối với chín hoặc chín mươi chín – nhỏ và lớn, ít và nhiều. Tuy nhiên, số ít lại quan trọng hơn số nhiều. Cuối cùng là dụ ngôn đặc biệt: Người Cha Nhân Hậu và Đứa Con Hoang Đàng (Lc 15:11-32), một dụ ngôn thâm thúy và rất quen thuộc. Đứa con hoang đàng là ai? Chắc chắn không ai xa lạ, đó là chính mỗi chúng ta.

Chính Con Thiên Chúa đã chuộc chúng ta về bằng giá máu của Ngài (x. Kh 5:9).

Chúng ta vừa là đứa con thứ, vừa là đứa con trưởng. Là đứa con thứ thì dễ hiểu, vì ai trong chúng ta cũng là tội nhân, là kẻ hoang đàng. Nhưng có lẽ chúng ta ít thấy mình là đứa con trưởng. Thật ra đứa con trưởng cũng chẳng tốt lành gì: so đo với người cha, ghen tỵ với đứa em, và kiêu căng – tự nhận mình là đứa con ngoan. Một lúc phạm cả ba tội, thế mà vẫn mạo nhận là công chính. Quá ảo tưởng!

Mẹ Thánh Teresa (1910-1997) đặt vấn đề về cách yêu thương hiệu quả: “Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa”. Người con trưởng đã phán xét người khác nên khó thể hiện lòng yêu thương với chính đứa em ruột của mình, thậm chí kể cả với người cha.

Yêu thương người yêu thương mình, hợp ý mình, cùng phe với mình thì quá dễ dàng, nhưng yêu thương người đối lập với mình thì thật khó biết bao! Nhưng phải yêu thương tới mức đó mới đúng là Kitô hữu. Người cha nhân hậu giải thích với người con trưởng: “Chúng ta PHẢI ăn mừng, PHẢI vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY”. Ước mong mỗi chúng ta có thể “sáng mắt” khi được giải thích như vậy.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết yêu thương vô điều kiện, không mệt mỏi. Xin giúp con gặp được Ngài khi con giao tiếp với tha nhân, và xin cho mọi người cũng gặp được Ngài khi họ giao tiếp với con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

50. Nhân lành

Một văn sĩ nđã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:

David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sđi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.

Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sđi luôn sang nơi khác.

Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:

- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy?

David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.

Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.

Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.

Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.

Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.

Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.

Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?

Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.

Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.

Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.

 

51. Thương người

Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy. Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.

Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng. Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết Thiên Chúa vui mừng biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai, vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công chính không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất, chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về tình phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm cổ con mà hôn.

Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta. Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào, không có một chỗ nào quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống thế gian.

Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.

Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.

Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.

Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm thầm chảy tự trong lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của con tim. Ước mong đó là những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.

 

52. Nhân hậu

Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.

Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.

Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.

Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.

Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.

Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.

Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.

Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.

Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.

Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.

Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.

Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.

Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:

Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?

Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:

* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải tội.

* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra bàn tán…

Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.

 

home Mục lục Lưu trữ