Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 37
Tổng truy cập: 1376683
CHI TIẾT HAY
CHI TIẾT HAY
Trong Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận rằng không ai được làm tôi hai chủ. “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy thì cười nhạo Đức Giêsu” (16:14). Họ nghĩ rằng của cải là dấu chỉ được Chúa đặc biệt hậu đãi. Vì thế, Đức Giêsu đã kể thêm một dụ ngôn khác về người giầu có và Ladarô để lên án thái độ tự mãn của họ.
(c.19) Người giầu có thì không được nêu danh tính trong khi người ăn xin thì được nêu rõ tên như có ý muốn đảo ngược lại quan niệm thông thường. Người giầu có ở đời này đổi ngược lại số phận với người ăn xin ở đời sau. Sự kiện này như nhắc lại những điều được chúc phúc và bị nguyền rủa ở trong bài giảng Các Mối Phúc Thật (6:20,24).
(c.24) Không phải cứ kêu lên: “cha Abraham”, là đủ để làm cho người ta trở nên con cái của ông và được hưởng ơn cứu chuộc. Gioan Tẩy Giả đã nói “Đừng vội nghĩ bụng rằng ‘Chúng ta đã có tổ phụ Abraham’ thì đã đủ để được cứu chuộc” (Lk 3:8); nhưng phải “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”.
“Xin thương xót tôi”: Điều oái ăm là bây giờ người giầu có lại trở thành kẻ ăn xin.
(c.29) Lời của Thiên Chúa qua Môi sen và các ngôn sứ chính là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai tìm kiếm. Đức Giêsu đã cho hiểu rằng Ngài không phá hủy Lề Luật (16:17), vì thế luật buộc phải bố thí cho người nghèo vẫn có giá trị. Người giầu có không phải là người được Thiên Chúa đặc biệt hậu đãi. Nhưng họ có bổn phận phải chia sẻ cho người nghèo theo luật buộc.
(c.31) Đối với những người đã có lòng chai đá thì dù cho có người về từ cõi chết cũng sẽ không thuyết phục được họ. Dụ ngôn Chúa kể cho những người Pharisêu, đã như là một sự khước từ. Họ cứng đầu tiếp tục con đường hư vong giống như người giầu có đã đi. Nếu họ đã coi thường Lề Luật, thì lời giáo huấn của Chúa chẳng thay đổi gì được họ.
Một Điểm Chính
Hãy dùng của cải một cách khôn ngoan, vì của cải chỉ là những gì Thiên Chúa cho chúng ta tạm giữ để giúp đỡ người nghèo khổ.
Suy Niệm
Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi gặp người hành khất ngoài đường?
Những điều kể trong Phúc Âm có vẫn còn đang xảy ra ngày hôm nay chăng? Bạn thấy mình có những điều gì giống người giầu có?, và có những gì giống người nghèo khó trong đoạn Phúc Âm hôm nay?
48. Thắp một ngọn đèn- Lm. Vũ Minh Nghiễm
Barbara Varenhorst trong cuốn sách nhan đề là Real Friends (Những người bạn chân thật) có viết về một phụ nữ tên Erma như sau.
Hôm đó, một người đàn bà tên là Erma có việc đi Chicago bằng phi cơ. Cô đến phi trường khoảng nửa tiếng trước khi máy bay cất cánh. Làm thủ tục xong, Erma ngồi chờ nơi phòng đợi. Trong lòng cô còn đang bực mình vì những chuyện không vui tuần vừa rồi. Cô lấy một cuốn sách hay ra đọc.
Nhưng rồi bỗng Erma nghe tiếng một người đàn bà khác đã có tuổi ngồi bên cạnh nói:
– Tôi đoán rằng tại Chicago trời lạnh lắm.
Erma mắt không rời cuốn sách, đáp lại cách lơ đễnh:
– Có thể lắm.
Người đàn bà có tuổi kia tiếp tục nói. Erma tiếp tục trả lời lại bằng những câu cụt ngủn lạnh lùng.
Thế rồi bà ta nói ra một tin động trời.
– Tôi hiện đi theo xác chồng tôi đem về Chicago. Anh ấy đã chết đột ngột sau 53 năm hôn phối.
Đến đây, quả tim Erma nhảy lên, đập nhanh đập mạnh. Cô nhận thức được rằng người đàn bà đang ngồi bên cạnh mình là người đau khổ, cần một người khác biết lắng tai nghe, biết cảm thông, hầu bà có thể thổ lộ tâm tình, cho vơi sự đau khổ đang đè nặng tâm hồn bà. Bà ấy không van xin một lời khuyên nhủ. Không van xin bạc tiền. Bà chỉ đi tìm một người biết lắng tai nghe. Thế mà Erma đã vô tình, làm người hoàn toàn xa lạ.
Bây giờ cô xếp sách lại, bỏ xuống ghế, đưa hai tay cầm lấy tay bà kia, và lắng tai nghe bà kể lể nỗi niềm đau thương của bà.
Trong khi lắng tai nghe bà kia kể lể, Erma quên hết các vấn đề khó khăn của mình. Cô bỗng cảm thấy tươi trẻ lại, can đảm hơn, mạnh mẽ hơn.
Khi tiếng người nhân viên hàng không vang lên trong máy phóng thanh, báo tin đã đến giời đi Chicago, Erma khoác tay bà kia lên máy bay. Tới nơi, họ chia tay nhau, tới chỗ ngồi của mình. Họ ngồi cách nhau vài ba hàng ghế.
Khi Erma đang đứng bỏ chiếc áo quàng lên hộp đựng hành lý phía trên đầu, Erma nghe bà kia nói với người hành khách bên cạnh bà y như đã nói với cô trước đây..
“Tôi đoán rằng ở Chicago trời lạnh lắm…”
Nghe vậy, Erma tự nhiên thốt lên một lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa ban cho người hành khách kia ơn biết nhẫn nại và lắng tai nghe với tất cả tấm lòng thương yêu.
Câu chuyện đây giống như câu truyện Chúa phán trong bài dụ ngôn hôm nay về người phú hộ và người ăn mày nghèo khổ tên là Ladarô. Người giàu có đầy đủ hết mọi sự. Còn Ladarô thì thiếu thốn hết mọi sự. Ladarô rất cần sự giúp đỡ và chỉ cần rất ít thôi. Nếu người phú hộ kia muốn giúp đỡ Ladarô, thì chỉ cho anh ăn những mụn bánh từ bàn tiệc của ông rơi xuống đất cũng đủ. Nhưng ông không bao giờ để ý đến Ladarô cả. Ông coi Ladarô như không có. Cách xử trí của ông đối với Ladarô không khác gì cách xử trí của Erma lúc ban đầu đối với người đàn bà đau khổ trong câu chuyện nói trên.
Cái tội làm cho người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay phải chịu cực hình trong địa ngục là tội gì?
Ông không bảo đầy tớ đuổi Ladarô ra khỏi cổng nhà của ông.
Ông không đánh đập Ladarô mỗi khi ông đi ngang qua chỗ anh nằm.
Ông không chưởi bới rủa nộp Ladarô mỗi khi ông trông thấy anh.
Vậy tội làm cho người phú hộ phải chịu cực hình là tội gì? – Thưa là tội ông ta coi Ladarô như không có! Tội ông ta không phải là một tội phạm vì đã làm một điều không được làm. Tội ông là một tội thiếu sót. Không làm điều đáng lý ông phải làm (sin of omission). Tội người phú hộ là tội không lay một ngón tay để giúp đỡ một tí, một tí thôi, người nghèo cực cần được giúp đỡ.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn về chúng ta và xã hội chúng ta hôm nay. Ai trong chúng ta mà không nhận thấy rằng câu chuyện Ladarô đang tái hiện hằng ngày giữa chúng ta? Đang tái hiện trong mọi tầng lớp của xã hội chúng ta đang sống?
Con người chúng ta, xã hội chúng ta đang đặt ưu tiên của mình trên vật chất hơn là trên con người.
Tổng thống Eisenhower trước đây có nói: “Mỗi một cái súng được đưa ra, mỗi một chiến hạm được hạ thủy, mỗi một hỏa tiễn được bắn đi, xét cho cùng là một cuộc đánh cắp người nghèo đói, không cơm ăn áo mặc.”
Tổng thống John K. Kennedy còn nói mạnh hơn nữa: “Khi người ta đặt ưu tiên của vật chất trên con người, không những người ta hủy hoại lớp người nghèo cực, mà còn hủy hoại cả xã hội mình đang ở giữa. Nếu một nước tự do mà không lo cứu vớt lớp người nghèo, người ta cũng không thể cứu vớt được lớp người giàu.”
Nếu chúng ta không lưu tâm đến những kẻ túng thiếu ở giữa chúng ta, thì không những chúng ta hủy hoại họ, mà hủy hoại cả chính bản thân chúng ta nữa.
Nói như vậy, có những người cũng còn cho là mơ hồ, chưa nhìn thấy một câu trả lời cụ thể cho cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại. Vậy chúng ta có thể trả lời cho bài học của dụ ngôn hôm nay bằng ba cách.
Thứ nhứt. Chúng ta xử sự như người phú hộ trong Phúc âm hôm nay: nhắm mắt lại trước mọi hoàn cảnh không may mắn, trước mọi đau khổ đang xảy đến chung quanh chúng ta.
Thứ hai. Chúng ta không nhắm mắt lại trước hoàn cảnh đau thương, khỗ cực, túng thiếu đang xảy ra chung quanh. Chúng ta lên tiếng phản đối ầm ĩ, bằng lời nói, hoặc bằng ngòi viết. Nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi! Chúng ta không lay ngón tay để làm một việc gì khác nữa cả, ngoài ra lời nói và ngòi viết.
Sau cùng, thay vì nhắm mắt lại trước những cảnh đau thương khổ cực, thay vì đứng nguyền rủa bóng tối do hoàn cảnh tạo nên, chúng ta thắp lên một ngọn đèn, và thực hành một cử chỉ cụ thể nào đó.
Ngọn đèn của một mình tôi xem ra mờ yếu. Nhưng nếu ngần nầy người trong nhà thờ hôm nay, mỗi người cùng thắp lên một ngọn đèn, thì sẽ tạo ra một rừng ánh sáng, đuổi bóng tối âm u ra khỏi khu vực của chúng ta.
Nếu mỗi người con cái Chúa đều thắp lên một ngọn đèn như vậy, thì không bao lâu ánh sáng sẽ lan toả ra khắp nơi, trong làng mạc chúng ta sinh sống, trong thành thị chúng ta hoạt động, torng quốc gia chúng ta đang cư ngụ, trong toàn thế giới. Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu thực hành những việc nhỏ mọn, như Erma đã làm đối với người đàn bà đau khổ tại phi trường trong câu chuyện mở đầu. Nghĩa là làm những gì chúng ta có thể làm. Đây là sứ điệp của bài Tin Mừng mà Đức Yê-su thách đố chúng ta hôm nay: “Chúng con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu chúng con.”
Khi chúng ta xử đại lạnh lùng đối với nhau thì mọi sự đều bế tắc hỗn loạn. Khi chúng ta biết thương yêu lẫn nhau, thì mọi sự thảy đếu xuôi gió thuận buồm.
49. Lòng nhân đạo- Lm. Bùi Mạnh Tín
Chia sẻ tiền của cho những người nghèo đói, đó là một hình thức bác ái cụ thể nhất và luôn được Chúa chúc phúc.
Trong cuộc sống, chúng ta thường phân biệt: công bằng và bác ái.
Công bằng là điều buộc phải tuân giữ, không tuân giữ thì có tội, chẳng hạn: không được bớt xén tiền bạc, không được lấy của kẻ khác, đừng làm hại tài sản của tha nhân, v…v…
Bác ái là nhưng điều không buộc, muốn thì làm không thì thôi, chẳng hạn: cho kẻ nghèo một đồ vật cần dùng, ủng hộ cho cơ quan từ thiện một số tiền,v…v…
Suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy, nếu chỉ làm những việc phải làm, nếu chỉ dừng lại ở mức độ công bình, mà không tiến tới mức độ bác ái, con người vẫn chưa sống xứng với “đạo làm người”, sẽ đánh mất đi “lòng nhân đạo” và sẽ trở thành ích kỷ. Hiểu như vậy, cha ông chúng ta đã thường dùng những câu châm ngôn để nhắc nhở: “Chia cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”.
Về phương diện tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, bác ái không phải có tính cách “nhiệm ý”, nhưng là một điều luật căn bản và quan trọng, như Chúa Giêsu tuyên bố: “Đây là một giới răn mới”. Là một điều luật, một giới răn, bác ái mang tính cách bắt buộc, và mọi Kitô hữu phải tuân giữ. Để nhấn mạnh tầm quan trọng này, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta câu truyện về một nhà phú hộ và Ladarô. Theo câu truyện, nhà phú hộ không làm gì sai đức công bằng: không gian tham, không trộm cắp, không bớt xén tiền của tha nhân. Nhưng điều tạo nên số phận bất hạnh đời đời cho ông, chính là ông không quan tâm đến Ladarô, một người nghèo và bệnh tật mà ông gặp hằng ngày, không chia sẻ cơm áo cho người anh em trong cảnh túng quẫn đang hiện diện bên ông. Ông chỉ biết phung ph1i tiền của để tạo nên hạnh phúc cho riêng mình. Nói khác, ông sống ích kỷ. Ở đây, chúng ta cũng nên nhớ lại quang cảnh ngày phát xét chung, do chính Chúa Giêsu mô tả (Mt 25:31-46). Định mệnh đời sau của mỗi người hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào tinh thần bác ái – có nghĩa là, tất cả những việc tốt chúng ta làm cho tha nhân, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng luôn mang giá trị cứu độ và đóng góp vào hạnh phúc mai sau. Bác ái, như Chúa Giêsu cho biết, là con đường bảo đảm nhất dẫn vào Nước Trời. Hơn thế, Chúa cho thấy những ích lợi của bác ái ngay trong cuộc sống này.
Bà goá miền Sarepta, vì biết chia sẻ nước uống và bánh cho tiên tri Isai, đã được Thiên Chúa cứu sống qua thời gian hạn hán, bằng cách làm cho hũ bột và bình dầu của bà không bao giờ vơi cạn (xem 1 Các Vua, 17). Tabitha được thánh Phêrô cho sống lại, “vì bà là người đã làm nhiều việc tốt và việc bố thí đối với tha nhân” (xem TĐCV 9:36-42). Cùng với lời cầu nguyện và ăn chay, sự bố thí rộng lượng của Monica đã đem con trai của bà là Augustinô về với Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng ta biết “dùng của cải đời này để mua sắm nước Thiên đàng đời sau.”
50. Bác ái cụ thể- Lm. Thanh Minh
Chắc hẳn ai trong chúng ta lúc học giáo lý đều hiểu rõ đức bác ái là cốt tủy của đạo thánh Chúa: “Mười điều răn Đức Chúa Trời tóm về hai nầy mà chớ: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”. Trong ba năm rao giảng nước trời Đức Chúa Giêsu đã huấn dụ rất nhiều về Đức bác ái như bài giảng trên núi (xem Mt chương 5), dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37), diễn từ chung luận về ngày tận thế (xem Mt. 25, 31-46), dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô hôm nay (Lc 16, 19-31). Và nhất là lời trối trăng di chúc của Ngài trong bữa tiệc ly tối thứ năm trước khi bước vào giờ tử nạn: “Thầy truyền cho chúng con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con, nhờ đó thiên hạ sẽ nhận ra các con là môn đệ của thầy” (Ga 13, 34-35)
Quảng diễn giáo thuyết của thầy chí thánh, thánh Phaolô đã ca lên trong bài ca đức ái (xem 1Cor 13) và Ngài đã khẳng quyết: “Yêu thương anh em là chu toàn lề luật”.
Tiên tri Amos trong bài đọc 1 đã nói với những người phú quý giàu sang rằng vì họ xưa kia đã được sung sướng no đầy nên nay phải bị lưu đày.
Người phú hộ trong bài Phúc Âm, thuở sinh tiền đã sống trong nhung lụa giàu sang phung phí yến tiệc linh đình mà khinh chê rẻ rúng người hành khất đáng thương Ladarô túc trực bên vỉa hè, do đó ngày nay bị trầm luân muôn kiếp trong lửa hỏa ngục, còn Ladarô suốt đời cực khổ, sống chẳng ra người thì nay được hưởng phần thưởng trên nước Thiên đàng với tổ phụ Abraham.
Đây là một câu chuyện nửa dụ ngôn, nửa thực tế, đáng chúng ta run sợ xét lại mức độ thực thi bác ái cụ thể của mình.
51. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Nghĩa
Câu hỏi gợi ý:
- Lời Chúa, qua ba bài đọc, muốn nhắn nhủ ta điều gì?
- Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo?
- Sự chia sẻ.
Suy tư gợi ý:
- Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa: Hạnh phúc vĩnh cữu.
Qua ba bài đọc, Giáo Hội muốn ta ý thức lại cùng đích tối hậu của đời ta là CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG, là HẠNH PHÚC VIÊN MÃN. Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Amốt đã ghê tỡm những thú vui trần tục. Ong đã cảnh cáo các vua chúa nếu cứ tiếp tục hưởng thụ một lối sống sa đoạ, sẽ có ngày đền tội bằng một cuộc đời lưu đày vất vả. Bài dọc 2, Thánh Phaolô khuyên đồ đệ thân tín của mình hãy can đảm sống công chính cho đến ngày Đức Giêsu quang lâm. Ngày đó, những kẻ tín trung sẽ được chiêm ngắm dung nhan của vị Chúa Tể Càn Khôn, Người đã sai Đức Giêsu, Con Một của Người đến trần gian dể cứu độ chúng sinh. Hạnh phúc được chiêm ngắm Ngài sẽ là viên mãn và vĩnh cữu. Bài đọc 3, sự tương phản giữa hai cuộc sống đưa đến sự tương phản giữa hai hạnh phúc: Hạnh phúc tương đối và hạnh phúc tuyệt đối. Ở cuộc sống chóng qua này, người nhà giàu xem ra rất hạnh phúc, ăn sung mặc sướng. Trong khi đó, Ladarô nghèo đói khổ cực, bệnh tật ghẻ chốc, bị khinh rẻ. Nhưng tất cả đều qua đi nhanh chóng vì ai cũng phải chết. Sau khi chết, cuộc sống vĩnh hằng bắt đầu, hạnh phúc hay đau khổ vĩnh viễn. Ong nhà giàu đã sa vào chốn cực hình. Người nghèo khó đã ung dung hạnh phúc trong lòng Apraham. Như vậy, Lời Chúa khuyên chúng ta hãy can đảm lội ngược dòng đời, hãy từ bỏ những sự phù phiếm thế gian để chiếm lĩnh phần phúc trên trời. Nhưng thế nào là phù phiếm thế gian? Có phải hễ cứ giàu có thì sở đắc nhiều phù phiếm thế gian chăng?
- Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Ta thấy người giàu có đã sa vào âm phủ đời dời kiếp kiếp với những cực hình không thể tả nỗi. Một giọt nước đở khát cũng không được. Rồi ta lại liên hệ đến câu nói của Chúa Giêsu:” Người giàu có vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim”. Hoá ra sự giàu có là một trọng tội? Sự nghèo khổ là cơ duyên cho một hạnh phúc vĩnh cữu? Vậy tại sao ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên giàu có? Nếu chúng ta không có quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo, chắc chắn chính chúng ta sẽ tự mâu thuẫu với chúng ta. Chúng ta thường tự hào khi đứng về phía người nghèo để đấu tranh cho họ. Không lẽ chúng ta đấu tranh cho họ để họ nghèo thêm? Mà nếu đấu tranh cho họ khá hơn thì tức là ta đã làm cho họ xấu hơn. Chương trình xoá đói giảm nghèo phỏng có ích gì? Và phải chăng ông Dale Carnegie đã sai lầm khi cho rằng một trong những điều kiện làm ta vui sống chính là ta phải thoát khỏi tình trạng túng quẫn thiếu nợ. Thực ra, nếu trong xã hội có nhiều người giàu thì càng tốt chứ sao. Vì như thế, người nghèo mới hy vọng có nơi để mượn tiền khi túng quẫn. Ai cũng thiếu ăn thì ai có thể giúp ai được.
Như vậy, kẻ giàu, theo Tin Mừng, tức là người xem của cải trần gian này là mục đích tối hậu, nếu không nói sự giàu sang phú quí chính là thần tượng mà họ tôn thờ, là Chúa của lòng họ. Cái phao cuối cùng của họ là vật chất. Họ bám víu vào nó. Họ chiếm hữu nó bằng mọi giá. Hậu quả là họ tự phụ khi họ giàu. Họ mặc cảm khi họ làm ăn thua lỗ. Họ ganh tị khi thấy người khác kinh tế khá hơn mình. Tôi còn nhớ, cách đây không bao lâu, Báo Công an Thành phố HCM có đăng tin. Chỉ vì ganh ghét người bạn đồng nghiệp ngư phủ của mình làm ăn phát đạt mà kẻ sát nhân đã mất hết tính người, trói cả gia đình người bạn quẳng xuống sông, nhận chìm luôn chiếc ghe của họ. Rất tiếc, kẻ sát nhân đó là một người “có đạo”.
Còn kẻ nghèo, theo Tin Mừng, là người xem đồng tiền như một đầy tớ hữu dụng, biết dùng nó để mua những giá trị đời đời. Kẻ nghèo không bao giờ coi thường vật chất, cũng không tôn sùng nó như vị chúa tể của lòng mình. Họ biết đặt nó đúng vị trí. Do vậy, trong thực tế, có thể người giàu có trước mặt thế gian lại là người nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Và ngược lại. Đến đây, chúng ta có thể trở về với vấn nạn: Ta phải làm gì để đạt hạnh phúc đời đời?
- Chia sẻ
Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó. Nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết dể thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ thiện tâm của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn (hiểu theo nghĩa rộng là Chân Thiện Mỹ).
NGUYỆN:
Lạy Chúa, là Khôi Bình viên, hơn ai hết con phải biết chia LỜI và sẻ BÁNH cho anh em con. Xin Chúa cho con có đủ quảng đại để biết chia mà không tính toán hơn thiệt. Xin cho con không những chỉ chia những cái dư thừa, nhưng ngay cả cái con đang cần, để con ngày nên giống Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá hơn. Amen.
52. “Họ đã có Môisen và các tiên tri”
(Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh)
Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc các vị cần phải có tinh thần trung tín như một người quản gia hết mình phục vụ Nhà Chúa, không làm tôi hai chủ, thì bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI tuần này, Người nói với nhóm Pharisiêu về dụ ngôn người phú hộ và Ladarô. Tại sao Chúa Giêsu không nói dụ ngôn này với các môn đệ của Người, hay với chung dân chúng, hoặc với thánh phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo dân Do Thái, mà lại nói riêng với nhóm Pharisiêu? Để trả lời cho vấn đề vừa được đặt ra ở đây, cũng như nhờ đó để hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần đọc lại đoạn Phúc Âm Giáo Hội không muốn cho đọc, đoạn Phúc Âm giữa bài Phúc Âm lần trước và lần này. Chúng ta nhớ lại là bài Phúc Âm tuần trước được kết thúc ở câu Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Bởi thế, ngay sau câu này, Phúc Âm Thánh Luca viết tiếp là: “Những người Pharisiêu, thành phần tham lam, nghe thấy tất cả những điều ấy thì cười nhạo Người”. Như thế, sở dĩ Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho riêng nhóm Pharisiêu chẳng những vì họ là “thành phần tham lam”, mà còn vì họ đã “cười nhạo Người”, nghĩa là không tin lời Người khẳng định “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, vì họ cho rằng, dù cho họ có thực sự tham lam đi nữa, nhưng, như dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện trong Phúc Âm Thánh Luca cho thấy, họ vẫn giữ đủ mọi luật lệ dâng cúng theo lề luật, tức là họ vẫn có thể được rỗi.
Nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn người phú hộ và Ladarô này, Chúa Giêsu như muốn chỉnh lại ảo tưởng vô cùng nguy hại này của họ, như muốn ngầm nói với họ rằng: Thế thì các người hay nghe dụ ngôn sau đây và hãy suy nghĩ cho kỹ, chứ đừng có mà tưởng bở, kẻo sẽ bị lãnh số phận vô cùng bất hạnh như người phú hộ trong dụ ngôn đó. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn này thì nhà phú hộ trong dụ ngôn chính là hình ảnh sống động của họ, và Ladarô trong dụ ngôn còn ai hơn là hạng người tội lỗi, được hiện thân nơi người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, hạng người đáng khinh bỉ dưới con mắt ngạo mạn của người Pharisiêu cũng đang cầu nguyện trong đền thờ bấy giờ. Qua dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hai cảnh hoàn toàn trái ngược nhau, chẳng những ở đời này, một người giầu sang phú quí là người phú hộ, và một người thì cùng cực khổ đau là Ladarô, mà còn ở đời sau nữa, người phú hộ thì bị muôn đời trầm luân khốn nạn, còn Ladarô thì được ngàn thu vinh phúc. Tại sao người phú hộ trong dụ ngôn bị hư đi và Ladarô cùng khổ được cứu độ? Phải chăng chỉ vì người phú hộ giầu sang phú quí đến nỗi đã phũ phàng hất hủi Ladarô khi còn sống? Và phải chăng Ladarô được cứu độ chỉ vì cảnh cùng khổ của Ladarô trên trần thế?
Trước hết, về số phận hư đi đời đời của người phú hộ đã được xác định rõ trong dụ ngôn, ở câu: “Người phú hộ chịu cực hình trong chốn kẻ chết, ngước mắt lên thấy Abraham từ xa và Ladarô đang nghỉ ngơi trong lòng ông… Abraham đáp lời hắn: Giữa ngươi và chúng ta có một vực sâu thăm thẳm ngăn cách, không ai có thể từ đây sang đó hay không ai có thể từ đó sang đây”. Thế nhưng, số phận bị đời đời hư đi “trong chốn kẻ chết” đây của người phú hộ chẳng lẽ, như lời Abraham nói với hắn, là vì “hỡi con, con hãy nhớ rằng con đã được may lành trong cuộc sống”. Như thế, số phận “may lành trong cuộc sống” nói chung chẳng lẽ lại chính là cớ làm cho con người hư đi đời đời hay sao? Phải chăng cũng chính vì thế Chúa Giêsu đã khẳng định trong Phúc Am Thánh Luca đoạn 6 câu 24 về cái khốn đầu tiên trong tứ khốn là: “Khốn cho các người là những kẻ giầu có, vì giờ đây các người đã được an ủi rồi”. Như thế thì đúng là cái khốn của thành phần giầu có là ở chỗ “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống”! Tại sao? Nếu không phải vì tình trạng “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống” này sẽ dễ làm cho lòng tham vô đáy của con người nơi họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ mà thôi. Thái độ “chỉ nghĩ đến hưởng thụ” này của thành phần tham lam giầu có cũng được Chúa Giêsu đề cập đến ở một dụ ngôn Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XVIII Năm C, cách đây 9 tuần, đó là trường hợp của “một người giầu có được mùa” liền nghĩ cách tích chứa những gì thặng dư của mình, sau đó anh ta tự nhủ mình như sau: “Hãy sống thoải mái! An cho ngon, uống cho đã. Hưởng cuộc đời”. Người phú hộ “ăn mặc lụa là gấm vóc, hằng ngày yến tiệc linh đình” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên hôm nay cũng thế, chỉ biết hưởng thụ đến nỗi, như lời Chúa Giêsu diễn tả, không hề biết đến Ladarô là một kẻ cùng khổ ngồi ngay “trước cổng nhà của mình”, nghĩa là ở ngay trước mắt người phú hộ. Bởi thế, cho dù người phú hộ chẳng hề ra mặt khinh khi và phũ phàng hất hủi hay tống cổ Ladarô đi cho khuất mắt, trái lại, chỉ vì ông đã neglect, đã không để ý đến mà thôi, ở chỗ không chịu ra tay giúp đỡ khi có thể, mà bị đời đời hư đi vậy.
Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Bởi vì, số phận hư đi đời đời ở đây còn liên quan đến một vấn đề sâu xa hơn nữa, hay nói cách khác, liên quan đến một nguyên nhân sâu xa khiến cho chung người giầu có, điển hình là người phú hộ trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu ở bài Phúc Âm hôm nay, chỉ biết sống hưởng thụ, ngoài ra không còn biết đến, hay không hề nghĩ đến, tha nhân cùng khổ chung quanh mình nữa. Nguyên nhân sâu xa khiến con người sống vị kỷ trên đời này, cũng là nguyên nhân khiến họ hư đi đời đời đó là gì, nếu không phải chỉ vì họ đã không sống đức tin, hay có đức tin mà không áp dụng, một đức tin phải được thể hiện qua việc thực thi bác ái, như nguyên tắc Thánh Phaolô đề ra trong Thư gửi Giáo Đoàn Galata đoạn 5 câu 6: “Đức tin hoạt động qua đức ái”. Đó là lý do, để trả lời cho lời yêu cầu của người phú hộ xin cho người chết hiện về báo cho 5 người anh em của hắn biết về số phận vô cùng khốn nạn để họ khỏi bị chung số phận đời đời trầm luân như hắn, vị tổ phụ đã trả lời với hắn là: “Họ đã có Moisen và các tiên tri… Nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri thì dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin”. Mà toàn bộ luật Moisen và lời các tiên tri dạy gì, nếu không phải được tóm gọn trong tinh thần mến Chúa yêu người, đúng như Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 22 câu 40: “Toàn thể lề luật và lời các tiên tri được dựa vào hai giới răn này”. Vậy thành phần hư đi nói chung chính là thành phần không mến Chúa yêu người. Ap dụng lời Chúa vào trường hợp người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay thì sở dĩ hắn có bị vĩnh viễn hư đi cũng chỉ vì hắn không mến Chúa yêu người. Mà lòng mến Chúa được thể hiện qua đức bác ái yêu thương, tức không biết yêu nhau thì không thể nào mến Chúa, trái lại, “họ chỉ là kẻ nói dối”, như Thánh Gioan xác nhận Thư Thứ Nhất của ngài ở đoạn 4 câu 20. Vậy người phú hộ, hiện thân của nhóm Pharisiêu, dù có giữ lề luật tỉ mỉ, những việc liên quan đến lòng mến Chúa, song không tỏ lòng yêu thương tha nhân trong tầm tay của mình, trái lại, còn ra mặt khinh bỉ những người tội lỗi, thì thực sự họ không sống trong chân lý, sống giả tạo trước nhan Thiên Chúa.
Nếu người phú hộ bị muôn đời trầm luân vì không sống đức tin, được thể hiện qua việc mến Chúa yêu người, thì Ladarô được rỗi chắc chắn cũng phải có đức tin, cũng phải mến Chúa yêu người, chứ không phải chỉ ở trong cảnh cùng khổ là tự nhiên hay tất nhiên sẽ được cứu độ. Hình ảnh Ladarô ngồi trong lòng tổ phụ Abraham là cha của những kẻ tin tưởng cũng đủ chứng tỏ Ladarô đã sống đức tin trong đời này. Tuy Phúc Âm không kể lại rõ ràng những cách thức Ladarô chứng tỏ đức tin của mình, chứng tỏ lòng mến Chúa yêu người của mình, ngoại trừ cho thấy hình ảnh của một Ladarô âm thầm chịu đựng nỗi cùng cực khổ đau của anh ta về phần xác, như bị chó đến liếm tấm thân ghẻ lở cùng mình, mà còn chấp nhận cả những bất hạnh, nhục nhã bởi cùng khổ mà ra, như bị đồng loại khinh bỉ, bỏ rơi, quên lãng, song anh vẫn hoàn toàn không hề than thân, trách phận, oán trời, hận đời v.v. Thế nhưng, trong bài Phúc Am theo Thánh Luca Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay Chúa Giêsu không quan trọng hoá số phận của Ladarô cho bằng của người phú hộ. Vì Người cố ý nói dụ ngôn này với thành phần Pharisiêu là thành phần chẳng những tham lam, chỉ biết sống cho mình, mà còn bị mù tối bởi ảo tưởng về việc tự công chính hóa của họ, đến nỗi, đã tỏ ra không tin tưởng Người, ở chỗ, cười nhạo lời Người khẳng định với các môn đệ trong bài Phúc Am tuần trước, đó là: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Phúc Âm Thánh Luca không thuật lại cho chúng ta biết phản ứng của những người Pharisiêu sau khi nghe dụ ngôn người phú hộ này ra sao, nhưng theo thực tế sống đời và kinh nghiệm sống đạo, ai trong chúng ta dám phủ nhận lời Chúa Giêsu, hay dám chứng minh ngược lại những gì Chúa nói không còn công hiệu hay giá trị nữa, lời Người phán: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu quả thực người phú hộ trong bài Phúc Am Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên theo Thánh Luca Năm C hôm nay bị hư đi đời đời chỉ vì ông ta không có đức ái với tha nhân, ở chỗ, có khả năng mà không chịu ra tay giúp người, chứ không phải lỗi phạm đức ái với tha nhân, như hiếp dâm, sát nhân hay trộm cắp v.v., thì phải chăng chỉ cần loài người chúng ta nói chung, và Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô chúng ta nói riêng, không có bác ái, như không có hay không mặc áo cưới khi được mời đến dự tiệc cưới Nước Trời (xem Mt 22:11-12), thì sẽ bị trầm luân muôn kiếp, như thành phần dê không chịu phục vụ Chúa nơi đồng loại của mình trong ngày chung thẩm (xem Mt 25:42-43)?
53. Suy niệm của Fr. Jude Siciliano
NGƯỜI NGHÈO CÓ CHỖ ĐỨNG ĐẶC BIỆT TRONG TRÁI TIM CHÚA
Thưa quý vị.
Nếu chúng ta chưa thấm nhuần những lời Chúa Giêsu dạy dỗ về đức khó nghèo mà thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng của Ngài, thì hôm nay thánh sử lại kể cho chúng ta một dụ ngôn khác chất lượng hơn. Đó là dụ ngôn ông phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ cùng cực. Dụ ngôn nói rõ hơn quan điểm của thánh Luca về vấn đề này. Chúng ta thường tìm kiếm mọi lý do để tránh né. Nhưng thánh Luca không khoan nhượng. Ngay từ đầu và trong suốt cả Phúc Âm người nghèo và tinh thần nghèo khó luôn luôn có một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Chúa Giêsu. Họ là những người dễ dàng đón nhận Phúc Âm (4, 17-19). Chính Ngài cũng thuộc hạng người nghèo khổ, ngay từ lúc dâng mình vào đền thờ, của lễ cha mẹ Ngài dâng là của lễ của lớp người nghèo khó (2, 24). Khi ra giảng đạo, Ngài chẳng có chỗ gối đầu (9, 58), khi chết chẳng có mảnh vải che thân (23, 34).
Tuy nhiên, thánh Luca không thực sự liệt kê một cách chính xác chúng ta phải sống thế nào để được gọi là nghèo khó. Ngài chỉ nói rằng phải từ bỏ mọi sự để theo Chúa, như trong Phúc Âm tuần trước: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 15, 33). Vậy mà Lazarô, Mat-ta, Maria vẫn còn có nhà cửa để đón tiếp Ngài và các môn đệ khác. Ông Gia-kêu chỉ phải phân phát có một nửa gia tài mà cũng được khen là theo chân Chúa Giêsu! Cho nên vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ để chúng ta suy gẫm trong ơn soi sáng của ChúaThánh Thần và chúng ta sẽ đáp ứng theo tiếng gọi của Ngài. Có một điểm chắc chắn trong bài Tin mừng hôm nay là đừng tự mãn về sự giàu có và gia sản của mình, nhưng hãy biết chia sẻ với những người cùng cực nghèo khó. Của cải có thể là hòn đá làm ta vấp ngã trên con đường theo Chúa. Có lẽ thánh Luca đang chống lại tính tham lam ích kỷ của các quyền lực tôn giáo lúc ấy (16, 14) coi giàu có là đặc ân Thiên Chúa chúc phúc và khinh rẻ đa số nghèo hèn là tội lỗi. Dụ ngôn sẽ cho chúng ta cái nhìn chính xác hơn.
Ông phú hộ cực kỳ giàu có, ăn vận hết sức sang trọng, toàn lụa là gấm vóc. Ông nổi bật trên nền trời nghèo khó chung quanh ông. Bữa ăn của ông được thánh Luca mô tả là yến tiệc linh đình, nhưng ông lại chẳng có tên! Không hiểu thánh sử có dụng ý ám chỉ đến ai? Các nhà chú giải kinh thánh cho là toàn thể giai cấp Pha-ri-sêu lúc ấy, bởi lẽ nếu nói rõ tên, ngài sẽ bị trù dập và khai trừ. Còn Lazarô thì có tên. Người nghèo thì lấy quyền lực đâu mà trả thù, cho nên phải cắn răng chịu đựng mọi thứ mạt sát. Lời văn của thánh Luca thật là chính xác và cay đắng. Thời nay cũng vậy thôi. Tầng lớp nghèo khó tha hồ chịu đựng những lời thóa mạ chua cay, đắng đót, còn những kẻ sang giàu dù một lời chỉ trích nhẹ nhàng cũng gây nên sóng gió. Cho nên nhiều vị có bổn phận coi sóc linh hồn phải tìm cách tránh né, mặc dầu gương xấu tày đình. Xã hội loài người là như thế đó, không có luật trừ. Sang giàu thì bao giờ cũng kiêu ngạo, chỉ có nghèo hèn mới khiêm nhường được mà thôi. Vậy những linh hồn khiêm nhường phải là những linh hồn có tinh thần nghèo khó và sống thực sự bằng tinh thần ấy. Sống xa hoa không thể nào khiêm tốn được. Có chăng chỉ là giả dối.
Tôi có người bạn thân đi giảng đạo ở Châu Mỹ La Tinh, ông sống với dân da đỏ mười năm, khi trở về nước Mỹ, bất cứ cái chi cũng làm ông ngỡ ngàng. Một hôm tôi đưa ông đi thăm siêu thị, vào gian hàng thực phẩm thấy bầy bán la liệt nước uống tinh khiết, giá một đô la hai mươi lăm xu một chai. Ông ngạc nhiên hỏi: “Vậy thì nước mạch của chúng ta ô nhiễm hết rồi sao? Tôi trả lời: không phải như thế, nhưng bây giờ người ta ưa uống nước này, vệ sinh hơn. Ông tròn xoe đôi mắt nói: Ngần ấy tiền chúng tôi sống được hai ngày. Tôi phải vất vả lắm mới giải thích cho ông hiểu nổi những thức ăn tân thời của nước Mỹ. Tới gian hàng bán đồ ăn cho chó mèo, ông thở dài khi thấy cơ man nào là nhãn hiệu thực phẩm dành riêng cho chó: ước chi những người nghèo khổ của tôi ở Nam Mỹ được những thứ này để ăn”. Phải, chính thế, mọi sự còn tùy vào cách suy nghĩ, cách nhìn sự vật của chúng ta.
Trở lại với dụ ngôn. Có tác giả dịch là Lazarô nằm lê la ở “cổng” nhà người phú hộ, với ngụ ý nhà của ông phú hộ to lớn lắm, đó là một lâu đài. Lazarô ước ao được ăn no nê những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn nhà phú hộ. Liệu Lazarô có phải tranh nhau với mấy chú cho con không nhỉ. Thảm thương đến thế là cùng! Trong thực tế thì còn nhiều hoàn cảnh thảm thương hơn. Cơm không có ăn, áo không có mà mặc, ngày này qua ngày khác nhịn đói chịu rét hoặc có chút cháo rau cầm hơi. Báo chí, Tv nhan nhản những cảnh tượng như thế. Vậy mà ở những chân trời khác, khách sạn ba sao, năm sao mọc lên như nấm ; thức ăn, đồ uống thừa thãi, mỗi ngày phải đem chôn hoặc phá huỷ từng nhiều tấn lương thực thực phẩm. Vấn đề không phải là thiếu thốn, mà là ích kỷ, phân phối không đều. Dụ ngôn Lazarô và người phú hộ tân thời nằm ở ý nghĩa đó.
Đối với đa phần trong chúng ta, chẳng ai dám tự nhận là người phú hộ, bởi chúng ta sống theo tiêu chuẩn hiện hành của những người lao động trong xã hội. Thức ăn nhanh, đồ uống pha sẵn, vừa đi làm vừa ăn sáng, nhưng tiêu chuẩn của chúng ta có khi quá đáng, so với những người nghèo đói, nó đã là thịnh soạn (sumptuous) rồi! Các nhà đạo đức thường khuyên nhủ chúng ta mỗi khi ăn uống nên nhớ đến những người nghèo đói, bớt một phần phung phí để giúp đỡ họ (giống như hũ gạo tình thương ở Việt Nam). Bằng không chẳng bao giờ chúng ta có được tinh thần khó nghèo và tình tương thân tương ái. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu gọi rõ tên một người nghèo đói, ông Lazarô. Nghĩa là rất cụ thể chứ không phải là chung chung trừu tượng. Không có người nghèo đói trừu tượng, mà chỉ có người đói khổ cụ thể, ở bên cạnh chúng ta, ở gần nhà chúng ta. Ông A, bà B. Phản ứng của chúng ta ra sao? giúp đỡ hay khinh bỉ? số phận của họ là số phận của Chúa Giêsu hay của kẻ bị chúc dữ? điều đó tuỳ thuộc vào viễn tượng mỗi người.
Phần thứ hai của bài dụ ngôn là một nghịch đảo của phần trên. Lazarô được hạnh phúc và người phú hộ bây giờ bất hạnh. Ông van xin tổ phụ Ap-ra-ham sai Lazarô nhúng ngón tay vào nước để làm mát lưỡi ông, nhưng chẳng được, tương tự như xưa kia Lazarô ước ao được ăn những mẩu bánh rơi, nhưng cũng chẳng ai cho! Hố ngăn cách đã có ngay từ khi hai người còn sống!
Đây là quan điểm rất quyết liệt của thánh Luca. Chúng ta nên suy tư cho quán triệt. Cái hố ấy là nghe hoặc không nghe lời Thiên Chúa. Kinh thánh đã quá đủ để chúng ta tự sửa lỗi lầm và nên lành nên thánh, nhưng người ta ưa thích nghe theo dục vọng hơn lời Thiên Chúa, vì vậy cho dù kẻ chết sống lại, người ta cũng không tin. Lời Môisen, lời các tiên tri đã trở nên vô ích. Điều đó vẫn đúng với thực tế hôm nay, bao nhiêu sách vở, thông điệp, lời kêu gọi đều rơi vào quên lãng, người ta vẫn ương ngạnh sống theo sự chỉ đạo của thế gian, ma quỷ và dục vọng. Nếu người ta biết chất vấn lương tâm, hối cải và thành thật sửa lỗi lầm, thì cục diện thế giới đã hoàn toàn đổi khác, chẳng cần đến binh hùng, tướng mạnh.
Bài đọc thứ nhất vẫn còn trích từ sách tiên tri Amos. Ông khiển trách những người giàu có sang trọng trong xứ sở. Báo trước với họ một tai hoạ khủng khiếp (eschaton) sẽ giáng xuống đất nước, nếu họ không ăn năn trở lại, thương kẻ nghèo hèn, giúp đỡ người cùng khổ. Họ tưởng rằng sự giàu có bất chính họ đang được hưởng là ân huệ trời ban và như vậy họ được chúc phúc. Không phải như thế, “ngày của Chúa” đã tới gần và là kết quả của lối sống vô luân, tham lam, ác độc mà họ đã từng gieo rắc bấy lâu nay. Sự hoà bình chính trị hiện nay thực ra trước mặc Chúa là ghê tởm, bởi nó là thứ hoà bình liên minh ma giáo để cho người giàu bóc lột người nghèo.
Đối với viễn tượng của Amos họ sẽ là kẻ đầu tiên phải lưu đày. Như vậy chúng ta thấy tư tưởng và lời cảnh cáo của vị tiên tri am hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Và Giáo hội cho chúng ta đọc lại như bài bổ túc cho Tin Mừng. Chẳng hiểu có mấy ai để ý lắng nghe mà chất vấn lương tâm. Hiếm lắm thay! Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam