Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1377649
CHÌA KHÓA ĐỔI ĐỜI
Chìa khóa đổi đời- Lm. Ân Sử
Trong một Khóa Thánh Linh, một bà VN trên 60 tuổi, ở Garden Grove, Cali, đã kể lại cho Linh mục hướng dẫn Khóa: “Sáng nay, con nghe lời cha tối qua, con dậy thật sớm, rồi quì gối dang tay để mở lòng con ra bằng: tha thiết thống hối, tha thứ cho “kẻ thù”, tin Chúa thương con, nhìn nhận Chúa là Chúa của con, và con tha thiết nài xin Đức Mẹ bầu cử (3 lần kinh Hãy Nhớ rất chậm và tin tưởng), cuối cùng như cha bảo, con dang tay tha thiết nài xin Đức Chúa Thánh Thần:
“Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng: (1) Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, (2) và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con” chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống (3) sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con”.
“Con tha thiết hết sức đọc kinh Chúa thánh Thần, như cha bảo. Lần thứ Nhất 10 lần, rồi lần thứ Hai 10 lần, và lần thứ Ba cũng 10 lần nữa... Thế mà cha ôi, con tha thiết cầu xin cả 30 lần rồi, mà “nòng (lòng) con nó cứ tơ tơ (trơ trơ)”!!! Sau đó, con nhớ cha bảo đừng có nản, nên con lại quyết tâm, lần này, con sẽ tha thiết hết lòng cầu nguyện như thế, không phải 10 lần, 10 lần, 10 lần, nhưng là 50 lần nữa!
“Lần quyết tâm 50 này, con vừa đọc đến lần thứ Ba, thì Chúa Thánh Thần đã xuống tràn đầy linh hồn con: Toàn thể con người con run lên, trái tim con đập mạnh, làm nóng ran khắp người” linh hồn con tràn ngập bình an, vui mừng và lạ lùng” rồi miệng con cảm thấy ngọt ngào đầy hương vị khi đọc kinh Chúa Thánh Thần!... Thế là từ lúc ấy cho đến sáng, con cứ cầu nguyện kinh Chúa Thánh Thần, không biết mấy trăm lần... Lúc này con nói với cha mà lòng con đang nóng ran lên!”...
Truyện bà cụ đây là một trong hàng 100 triệu trường hợp hiện đang xẩy ra, ngay giữa người VN hải ngoại, và trong cả thế giới Công giáo (1967-2001). Đúng như lời Chúa Giêsu đã loan báo trong Phúc âm hôm nay:”Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14:26). Và một khi chúng ta được Chúa Thánh Thần tràn đến trong đời, chúng ta sẽ đạt được hai mục đích, mà Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đã hứa ban: (1) Yêu mến Chúa, và được Chúa Cha và Chúa Giêsu đến ngự trong ta” (2) được Chúa ban cho tâm hồn sự bình an tuyệt vời, bình an khác biệt với trần gian (Lc 14:24, 27). Như vậy Chúa Thánh Thần sẽ là chìa khóa đổi đời của chúng ta.
Kinh nghiệm trước mắt chúng ta, Chúa Thánh Thần đã là chìa khóa “đổi đời” của bà cụ Việt Nam và của hàng 100 triệu Tín hữu Công giáo hiện nay. Thời đại chúng ta đang sống, như lời Đức Gioan Phaolô II, “là thời đại của Chúa Thánh Thần và của Đức Maria”.
Thời đại chúng ta, cũng đúng như lời tiên tri Joel, cách đây 2300 năm, đã tiên báo: “Sẽ xẩy ra là sau đó, Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên mọi người. Con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri, các vị bô lão sẽ được chiêm bao, trai tráng của các ngươi sẽ được thị kiến, và cả trên các tôi nam tớ nữ của các ngươi, trong những ngày đó, Ta sẽ đổ tràn đầy Thánh Thần của Ta” (Joel 3:1-2).
Ơn “đổ tràn Thánh Thần” xuống trên mọi người, mà tiên tri Joel nói đây, là ơn dành cho tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, chứ không chỉ dành riêng cho một ai. Chỉ cần họ có thành tâm thiện chí, sẵn sàng “Mở lòng” ra đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng bạn thắc mắc “Mở lòng” bằng cách nào? Thưa bằng cách rất thông thường, bằng 5 việc: Thống hối xưng tội - Tha thứ (quan trọng nhất là tha thứ cho “kẻ thù”) - Tin Chúa thương mình - Tôn nhận Chúa làm Chúa hạnh phúc đời mình - Tha thiết xin nài Chúa ban tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân đời mình.
Ơn được tràn đổ Thánh Thần này, theo Thánh Kinh và Thánh Truyền, cũng như Giáo Lý Công giáo, chúng ta, hết thảy các Tín hữu Công giáo, đã được khi lãnh nhận bí tích Khai tâm (Rửa Tội, Thêm Sức, Mình Thánh Chúa). Nhưng vì quá nhiều lý do và nguyên nhân, đời sống Tín hữu của chúng ta không còn thấy được các hiệu quả, của các Bí tích ấy hiện tỏ và hữu hiệu nhiều nữa! Do đó định nghĩa và mục đích của “ơn tràn đổ Thánh Thần” đây, chỉ là ơn Chúa Thánh Thần đến canh tân đời sống Tín hữu, và làm sống lại những ơn mà các Tín hữu đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội và Thêm sức xưa. Chính vì lý do này, nhiều Linh mục và đông đảo giáo dân, ngay giữa VN hải ngoại, đã bỏ đi những hiểu lầm và thiên kiến về Phong trào “Đoàn Sủng Canh Tân”.
Qua ít dòng trên, chắc quí vị và quí bạn đã hiểu sơ lược thêm về Chúa Thánh Thần là “Chìa Khóa Đổi Đời” cho Giáo sĩ, Tu sĩ và Tín Hữu. Chìa khóa này có tầm rất quan thiết, vì qua đó, Chúa Thánh Thần sẽ canh tân đời sống mới trong ta, và ơn Ngài sẽ làm đời Tín hữu chúng ta nên tươi vui đầy hoan lạc, ngay hiện nay trên trần thế, và vĩnh hằng trong Thiên Chúa là hạnh phúc thật đời đời. Xin khuyến khích quí vị và các bạn noi gương cầu nguyện “đổi đời” như bà cụ VN!
62. Hồng ân bình an – Lm. Minh Vận, CRM
Sau khi từ cõi chết sống lại, mỗi lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ, Chúa đều chào chúc các ông: "Bình an cho các con!". Bình an là một hồng ân cao quí nhất Chúa ban tặng cho con cái yêu dấu của Chúa; vì chỉ có sự bình an mới làm cho con người được hạnh phúc, chỉ có sự bình an mới làm cho trần gian nên đáng yêu đáng quí và đáng được Chúa chúc phúc.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại lòng khát khao của Chúa: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con". Chính vì sự bình an của Chúa cần thiết cho cuộc sống con người, mà hằng ngày trong khi cử hành Thánh Lễ, sau khi Giáo Hội dạy chúng ta hợp nhau dâng lên Chúa là Cha chúng ta lời cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời". Giáo Hội lại muốn chúng ta kêu cầu cùng Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã phán với các Tông Đồ rằng: Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban sự bình an của Thầy cho các con. Xin Chúa đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin nhìn đến Đức Tin của Hội Thánh Chúa, xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn".
I. BÌNH AN TRẦN GIAN BAN TẶNG
Vậy, bình an là gì?
Chắc chắn sự bình an của Chúa ban tặng chúng ta, không phải là thứ bình an tạm bợ mau qua theo quan niệm trần gian, vì chính Chúa đã quả quyết: "Thầy ban bình an cho các con, không phải thứ bình an như thế gian ban tặng".
Bình an theo quan niệm trần gian là không có chiến tranh, không hận thù chém giết, không gây nên những cuộc tranh dành đẫm máu, tan cửa nát nhà, phân tán chia ly, tha hương cầu thực, như biết bao người trong anh chị đồng bào chúng ta, đang phải hứng chịu cái hậu quả tàn khốc của chiến tranh hận thù.
Bình an cũng không phải chỉ là được giầu sang phú quí, được thịnh vượng, được văn minh tiến bộ, được quyền hành thanh thế có thể áp đảo điều khiển được những kẻ yếu kém.
Tất cả các điều trên đây tuy là những dữ kiện quí báu để góp phần xây dựng hạnh phúc cho cuộc sống con người trên mặt đất; nhưng chúng vẫn chưa phải là điều kiện chính yếu, để có thể làm cho nhân loại được hưởng sự bình an chân thật, là thứ bình an mà Chúa trao ban cho những con cái yêu dấu của Người.
II. BÌNH AN CHÂN THẬT CỦA CHÚA
Điều kiện để được tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa ban tặng, chính là tâm hồn trong sạch, luôn sống trong ơn nghĩa thánh, như những tôi trung con thảo của Người, luôn trông cậy tín thác mọi sự nơi lòng thương yêu quan phòng khôn ngoan của Chúa, luôn hết lòng phụng sự và tận tình yêu mến Ngài, luôn khát khao làm hài lòng Ngài.
Chỉ có tâm hồn khiêm hạ, luôn biết chân nhận thân phận thụ tạo yếu hèn tội lỗi của mình, không những trước tôn nhan Chúa mà còn trước mặt nhân loại; vì thế, không bao giờ họ dám tự kiêu tự đại đưa mình lên trên người khác, không khinh dể ai, nhưng luôn biết tôn trọng mọi người. Không mưu mô xảo trá, không quanh quéo quỉ quyệt, không dối trá tham lam... Không bao giờ họ là nguyên nhân gây nên sự chia rẽ bất thuận, xáo trộn hận thù, làm tổn thương tình bác ái huynh đệ trong gia đình hay trong cộng đồng. Bất cứ ai họ cũng cư xử lịch thiệp như bạn thân, vì không coi ai là kẻ thù của họ; họ sống thân thiện hòa nhã với mọi người. Bởi thế, họ luôn có thêm bạn hữu và giảm bớt kẻ thù nghịch.
Hơn nữa, họ còn sẵn sàng chịu nép vế, chịu thua thiệt, chịu hiểu lầm, để giữ được hòa khí trong anh chị em, mang lại nguồn an vui hạnh phúc cho gia đình, sự an hòa yêu thương cho cộng đồng và niềm hân hoan vui tươi cho xã hội... Do đó, không những tâm hồn họ đáng được tận hưởng sự bình an chân thật Chúa ban, mà còn trở nên sứ giả đem lại an bình cho mọi người.
III. SỨ GIẢ HÒA BÌNH CỦA CHÚA
Là con cái Chúa, là những Tông Đồ tình yêu thương của Chúa, chúng ta phải là những Sứ Giả Hòa Bình. Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được diễm phúc trở nên con cái Chúa, Chúa đã ủy thác cho chúng ta sứ mạng đem sự bình an của Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Phanxicô Khó Khăn đã thấu hiểu sứ mạng cao cả Chúa trao, nên Ngài đã sung sướng dâng lên Chúa lời khẩn nguyện tha thiết, xin Chúa ban cho ngài được trở nên Sứ Giả Hòa Bình của Chúa, để ngài có thể chu toàn được sứ mạng: "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm" (Kinh Hòa Bình).
Đây một tấm gương trong sáng, như vị sứ giả hòa bình do Chúa gởi đến: Tại thành phố Tokyo Nhật Bản, có một khu vực thật nghèo nàn, dơ dáy, bẩn thỉu với biết bao tệ đoan thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ; không ai muốn nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát giữ an ninh, luôn rình rập để thộp cổ những con người phạm pháp, những băng đảng giết người cướp của... Vì thế, nơi đây người ta thường gọi bằng cái tên là "khu ổ chuột" hay "sào huyệt trộm cướp".
Trong lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên đại học y khoa, lại thường hay lui tới quan sát, thăm hỏi trong những lúc rảnh rỗi của những ngày cuối tuần... Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học, bỏ cả một tương lai đầy mộng mơ với nhiều hy vọng, để đến đây chung sống với họ trong cảnh nghèo nàn. Cô đã đi gõ cửa từng gia đình, các nhà hảo tâm, các cơ quan từ thiện, xin quần áo, đồ dùng, thuốc men, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Sau một thời gian vắn, cái "khu ổ chuột" và "sào huyệt trộm cưóp" này đã được biến đổi, cảnh nghèo nàn bớt dần, những tội ác không còn nữa, và điều đáng vui mừng hơn cả là nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện xin học giáo lý trở lại Đạo Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy sinh bác ái cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ đã tôn cô như vị đại ân nhân và như một người mẹ hiền của họ, ai ai cũng mến phục, tôn trọng và nghe lời chỉ giáo của cô. Nhưng mới chỉ một thời gian chưa đầy một năm, vì quá lao tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm trọng bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả của Tình Thương Chúa gởi đến trong xã hội hận thù giữa thời đại hôm nay. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô, cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền, và một số đông đảo quần chúng từ khắp nơi tuôn về tham dự, vì đã từng được nghe biết và ngưỡng mộ cô.
Kết Luận
Câu truyện cô nữ sinh viên y khoa trên đây đã là một thách đố cho chúng ta. Một cô gái mới chỉ 27 xuân xanh, đã dám hy sinh cả cuộc đời còn lại của mình, làm một việc anh hùng, để đem an vui hạnh phúc đến cho những con người xấu số trong xã hội nhiều đau khổ và đầy hận thù này.
Còn chúng ta, Chúa không đòi chúng ta phải làm những việc anh hùng vượt quá khả năng, ngoài tầm tay mình; nhưng chúng ta có dám vì yêu mến Chúa, quảng đại hy sinh, nhường nhịn, thông cảm, để làm cho gia đình chúng ta được vui tươi hạnh phúc không?
Chúng ta có dám vì yêu mến Chúa bớt chút thời giờ, sức lực, tiền của, để tìm đến với những người xấu số, đem lại cho họ niềm an ủi hạnh phúc, hầu chinh phục họ về với Chúa không?
Xin Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng ta là con cái yêu dấu của Mẹ, được xứng đáng tận hưởng sự bình an chân thật của Chúa và trở nên sứ giả đem sự bình an của Chúa đến cho mọi người.
63. Kitô hữu tự bên trong- Lm. Nguyễn Trung Điểm
Trong việc chọn lựa người bạn đời trong hôn nhân, ở Việt Nam ta có câu: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Quan niệm nầy mất ảnh hưởng dần dần, người trẻ ngày nay được nhiều tự do hơn để chọn lựa. Câu nói: “Con yêu anh ấy và anh ấy yêu con” là lập luận người trẻ thường dùng để tranh đấu cho sự tự do chọn lựa người bạn trăm năm. Không chỉ trong hôn nhân mà ở mọi bình diện khác, tự do chính là một giá trị lớn lao quý giá thế hệ ngày nay nhiều ít đã đạt được. Tự do đôi khi bị hiểu sai là đồng nghĩa với việc muốn làm gì thì làm và không cần phải giữ những bó buộc. Tuy nhiên, đa số vẫn nhìn nhận ý nghĩa của tự do chính là khả năng có thể nói năng hoặc hành động từ động lực bên trong thâm tâm con người, chứ không bị hoàn cảnh hoặc thế lực bên ngoài ép buộc.
Phẩm giá cao quý đó chính Thiên Chúa cũng nhìn nhận. Người không muốn là kẻ độc tài dùng giới răn và cấm cản để thống trị con người. Tin Mừng nói đến thứ tự do đích thực đó: niềm tin của kitô hữu phát xuất từ kinh nghiệm nội tâm: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Qua việc vâng giữ lời Chúa Giêsu và để cho lời Người uốn nắn cuộc sống mình, người kitô hữu được Chúa Giêsu thấm nhập vào con tim mình. Trong cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu, họ cảm nghiệm được những điều tốt đẹp cao quý Người mang đến cho họ, hiểu được cuộc sống sung mãn Người hứa ban, hiểu được sự bình an mà chỉ Thiên Chúa ban được. Việc vâng giữ lời Chúa khi ấy không là hành động tuân giữ một lệnh truyền từ bên ngoài, nhưng là việc lắng nghe tiếng gọi thâm sâu kêu mời con người hướng đến một cuộc sống đích thực như họ ước muốn tự thâm tâm. Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha trong cách thế ấy. Sự vâng lời đó không làm Người xa lạ với bản thân, nhưng giúp Người thể hiện cuộc sống riêng biệt đích thực của Người.
Cuộc sống kitô hữu thể hiện tự bên trong, tự niềm tin và sự xác tín sâu xa. Tin Mừng làm rõ thêm tư tưởng nầy: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Chúa Giêsu và Cha Người sẽ đến ở lại, cư ngụ trong họ. Thiên Chúa chúng ta tin không phải là Đấng từ trên cao thống trị con người, bó buộc con người phải quỵ lụy dưới ách thống trị và sự kiểm soát của Người. Nhưng Người là Đấng Thiên Chúa chúng ta có thể khám phá ngay trong chúng ta như là mầu nhiệm của cuộc sống sung mãn, Đấng giúp chúng ta hiểu biết ơn gọi làm người của mình. Như thế, thánh ý Chúa và ước vọng sâu xa của con người không phải là 2 điều khác nhau. Người cư ngụ trong con người, để giúp con người khám phá ra: thánh ý Người chính là điều con người thiết tha ước muốn tự thâm tâm. Thánh ý Người chính là điều con người ước vọng sâu xa trong tâm hồn. Vì vậy, chúng ta là kitô hữu đích thực không phải khi gập mình trước Thiên Chúa, miễn cưỡng tuân giữ các lề luật và chấp nhận định mệnh khắc khe được áp đặt trên chúng ta; nhưng khi chúng ta dành chỗ cho Người trong tâm hồn chúng ta, để Người có thể cư ngụ trong chúng ta và làm chúng ta hiểu sự hiệp nhất giữa thánh ý Người và niềm vui sâu xa của chúng ta, giữa dự án tình thương của Người và ý nghĩa cuộc đời của chúng ta.
Một linh mục đã trải qua 6 năm trong tù biệt giam. Trong những khó khăn từ thể chất, tâm lý đến tinh thần, lời Tin Mừng nầy đã giúp cha lướt qua được những giây phút khủng hoảng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Trong những giây phút đen tối dài vô tận và không biết khi nào chấm dứt, cha đã cố gắng áp dụng lời nầy cho từng giây phút hiện tại. Khi đã qua rồi, nhìn lại cha đã ngạc nhiên không hiểu làm sao mình đã có thể lướt qua được như vậy. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”, bình an của Chúa giúp chúng ta lướt thắng được mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và chúng ta, cũng như giữa con người với nhau. Bình an của Chúa ban tự bên trong có khả năng giúp chúng ta hoà giải với Thiên Chúa, với bản thân và với người khác.
64. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
(Chú giải và suy niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV ("Sách về Giờ của Đức Giêsu") và ở trong "Diễn từ cáo biệt thứ nhất" (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?" (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
- lời (23): Đối với một người Sê-mít, "lời" (logos) có tính cụ thể; "lời" diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
- Thánh Thần... Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ "Thánh Thần" (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ "Đấng đó" (ekeinos) thay cho "Thánh Thần" (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho...
- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, "dạy" và "làm nhớ lại" không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, "dạy anh em" và "làm anh em nhớ lại" song đối với nhau.
- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, "bình an", "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui" là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" là một cách khác để nói "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (10,28). "Bình an của Thầy" ở đây cũng giống như "niềm vui của Thầy" ở 15,11 và 17,13.
- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện "không có thật", chưa xảy ra[1].
- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: "Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi". "Cha quan trọng hơn tôi" nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng "mạc khải" Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập "cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại" (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải "giữ lời" Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này ("giữ lời"), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: "Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy" (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là "sự thật", "ánh sáng", "sự sống", "niềm vui", dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải "giữ các lời Người" (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.
--------------------------------------------
[1] M. Zerwick, Biblical Greek.313.
65. Chú giải của Noel Quesson
Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người động thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?
Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.
Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.
Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.
Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.
Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động... có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.
Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.
Thánh Thần... Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.
Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ thắp nới trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.
Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của 'Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại... Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi”. như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu,. Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thấn. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại..”. Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều kinh Tin kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Ni-xê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.
Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng, Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.
Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người... Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.
Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.
Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.
Lạy Thánh Thần, xin hãy đến!
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam