Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1378818

CHIÊM NGẮM CÂY THẬP GIÁ

Chiêm ngắm cây Thập Giá

Với Chúa nhật Lễ Lá hôm nay, cùng với tất cả anh chị em tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong năm Phụng Vụ. Đồng thời, Chúa nhật Lễ Lá hôm nay cũng có một ý nghĩa đặc biệt đối với người trẻ Công Giáo. Bởi vì hằng năm, Giáo Hội đã chọn ngày này làm ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Chọn ngày Lễ Lá, ngày khởi đầu Tuần Thánh là ngày Quốc Tế Giới Trẻ, Giáo Hội cũng muốn kêu gọi người trẻ Công Giáo bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá, cùng chịu đóng đinh với Người để được Phục Sinh với Người trong cuộc sống mới.

Do đó, Tuần Thánh là thời gian đặc biệt đối với người Công Giáo, thời gian mà cây Thập Giá của Chúa Giêsu được giương cao hơn bao giờ hết. Trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, cho thấy Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem để chịu chết và chết ô nhục trên cây Thập Giá. Người Công Giáo nào cũng quý mến cây Thập Giá, nhưng mà hình như cách quý mến của chúng ta nặng về tình cảm. Và chúng ta thường lấy cây Thập Giá để an ủi nhau, nhất là khi mình bị bệnh, bị tai nạn, thất nghiệp, hoặc là bất cứ một đau khổ nào ập đến, thì mình an ủi nhau là "Chúa gởi Thập Giá đến chịu khó mà vác". Rất là đạo đức. Thế nhưng cách an ủi đó dường như cây Thập Giá xuất hiện như một thái độ cam chịu, nhẫn nhục chứ không có gì tích cực. Và ngày hôm nay, không phải chỉ riêng người Công Giáo chúng ta, mà nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy cây Thập Giá của Chúa Giêsu đang bị "phá giá". Các minh tinh màn bạc, các diễn viên điện ảnh nào cũng thấy đeo một cây Thập Giá trên ngực. Cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã trở thành món trang sức và nhiều khi là một trò hề. Thành thử ra, chúng ta cần phải đi tìm lại ý nghĩa của cây Thập Giá. Và dĩ nhiên, ý nghĩa của cây Thập Giá rất phong phú, hôm nay chúng ta chỉ quan tâm đến một vài ý nghĩa khi suy niệm bài Thương Khó của Chúa nhật Lễ Lá này.

Trước hết, nơi cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa, Ngài ôm lấy tất cả nhân loại trong vòng tay của Ngài, mang lấy tất cả tội lỗi của chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Và chính vì thế mà chúng ta được hưởng nhờ ơn tha thứ mà Ngài thể hiện ra nơi cây Thập Giá.

Cùng với mặc khải đó, thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu còn tỏ lộ một điều thứ hai là sự độc ác dã man và tội lỗi của con người. Bởi lẽ, có cây Thập Giá trên đồi Canvê là có sự hèn nhát của ông Phêrô, có sự phản bội của Giuđa, có sự toan tính quyền lực của những người lãnh đạo lúc bấy giờ, có sự toan tính lợi lộc của những người làm ăn thời bấy giờ. Tất cả gộp lại tạo nên cái chết của Chúa Giêsu trên cây Thập Giá. Ở trong quá khứ, người Công Giáo chúng ta có thói quen đổ tội cho dân Do Thái đã giết Chúa Giêsu. Ngày hôm nay thì Giáo Hội có một cái nhìn khác, Giáo Hội đã nói trong Sắc lệnh "Đối Thoại Với Các Tôn Giáo" rằng: "Không thể nào kết án một cách hàm hồ cho dân cư ở Giêrusalem lúc bấy giờ và cho toàn dân Do Thái phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, cho dẫu những người cầm quyền lúc bấy giờ đã quyết định như thế". Hơn nữa, Giáo Hội còn nói thêm rằng: "Mỗi một người Công Giáo phải thấy rằng tội lỗi của mình chính là những cái đinh đóng vào Chúa Giêsu". Thánh Phanxicô Assisi cũng đã nói rằng: "Anh chị em không biết rằng mỗi một tội anh chị em phạm là anh chị em đóng đinh Chúa Giêsu trên cây Thập Giá hay sao?". Chúng ta chứ không phải người Do Thái. Chính vì thế, cây Thập Giá của Chúa Giêsu bộc lộ sự dã man, độc ác, tội lỗi của anh, của chị, của tôi. Cho nên, khi đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu thì con người thật của chúng ta được phơi bày ra: có những lúc chúng ta cũng phản bội Chúa như Giuđa, có những lúc chúng ta cũng chối Chúa như Phêrô, có những lúc chúng ta cũng làm ngơ, hại người như Philatô, có những lúc chúng ta cũng lên án và vô ơn bạc nghĩa như đám đông dân chúng Do Thái.

Và cùng với việc tỏ lộ khuôn mặt tội lỗi của chúng ta thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu cũng bộc lộ khuôn mặt của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo đó chính là Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, Đấng mà khi phải đối diện với đau khổ và cái chết, mà theo bản tính tự nhiên, Ngài đã run rẩy, sợ hãi, kinh khiếp đến nỗi Ngài phải thốt lên: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất". Thế nhưng, người con ấy vẫn cố gắng vượt qua khổ đau để thưa lên rằng "Xin theo ý Cha", và lời cầu nguyện cuối cùng trong cuộc đời là: "Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha". Ước gì chúng ta trong những giây phút mà cuộc đời gặp thử thách và đau khổ chứ không phải là hạnh phúc và sướng vui mà mình có thể nói lên câu đó: "Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha". Tâm tư đó là tâm tư chỉ có những người con hiếu thảo với cha mình trên trời mới dám dâng hiến như vậy, mới dám trao phó và tín thác như thế.

Cho nên, cây Thập Giá Chúa Giêsu, một đàng Thiên Chúa tỏ mình là Đấng yêu thương tha thứ, hy sinh mạng sống vì chúng ta; một đàng chúng ta bị vạch trần tội lỗi của mình và đồng thời Chúa Giêsu bộc lộ dung nhan của người con hiếu thảo.

Chính vì thế, khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay và nhất là trong Tuần Thánh này, mỗi lần chúng ta chiêm ngắm cây Thập Giá Chúa Giêsu, ước gì chúng ta nhận ra ở đó khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha thương xót và tha thứ, ước gì chúng ta nhận ra ở đó con người tội lỗi của mình và ước gì chúng ta cũng nhận ra ở đó khuôn mặt của người con hiếu thảo là Chúa Giêsu để mình bắt chước lối sống của người con hiếu thảo đó. Khi chúng ta khám phá được như vậy, lúc mà mình đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu và ngước nhìn lên Ngài với lòng tin thì lúc đó ơn cứu độ sẽ đến với chúng ta. Amen.


 

60. Chúa Nhật Lễ Lá

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam chúng ta giờ đây rất quen với danh từ nghĩa địa: người chết mang ra nghĩa địa, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta cũng quen dùng đồ vật từ nghĩa địa, thí dụ như xe nghĩa địa, TV nghĩa địa, không biết làm sao kể cho hết những đồ nghĩa địa mà chúng ta đang dùng. Chúng ta vẫn biết đây là những thứ không còn đáp ứng nhu cầu của một số người, nên họ cho vào nghĩa địa. Thế mà đó lại là những thứ cần thiết và đôi khi rất quí giá đối với một số người khác. Đồ vật là như thế, số phận của nó là như thế. Khi không còn hữu dụng nữa, thì nó phải bị vứt ra ngoài. Con người nhiều khi cũng chịu chung số phận với đồ vật. Khi không còn giúp ích được cho người khác nữa, thì khó có thể tồn tại. Chúng ta đang sống trong một xã hội với thời buổi kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận, nên đôi khi chúng ta cũng cảm thấy vướng bận, đối với những người già cả không còn giúp ích gì cho chúng ta nữa, mà trái lại còn gây nên đủ thứ phiền hà. Nghe thì thật bất nhẫn, nhưng chúng ta cũng muốn sớm đưa những thứ vướng bận đó ra nghĩa địa. Con người muốn tìm sự thoải mái cho chính mình mà nhiều khi họ bỏ qua, hay không còn biết gì đến nhiều thứ rất cần thiết, những thứ mà một người bình thường không thể thiếu được: như chữ hiếu, lòng biết ơn và tôn trọng nhân phẩm.

Trong việc cử hành phụng vụ ngày hôm nay, chúng ta vừa chứng kiến một cảnh bi hài kịch. Những con người đó, những môi miệng đó, những đôi tay đó: Họ vừa hoan hô mừng rở, vì họ đã được ăn bánh, đã được chữa bệnh, đã được nghe giảng dạy và họ cũng đã từng mơ ước được sống với Ngài. Nhưng rồi cũng những con người đó, giờ đây họ lại lớn tiếng đòi đóng đinh Đấng đã từng thi ân cho họ. Vì giờ nầy đây, họ thấy Chúa Giêsu không còn cần thiết nữa. Họ cũng nhận thấy Ngài không biết vâng lời họ, Ngài cũng không phục vụ cho những lợi nhuận riêng tư của họ, Ngài không thực hiện đúng với những gì họ mong muốn. Nói đúng ra Ngài không đáp ứng nhu cầu họ đòi hỏi, nên họ loại Ngài ra khỏi cuộc sống của họ. Họ muốn cho Chúa Giêsu vào nghĩa địa của họ. Nhưng Ngài vẫn yêu thương những con người như thế, Ngài biết họ lầm lạc trong suy tư, thiển cận trong tầm nhìn và nông nỗi trong hành động. Ngài đã chịu treo cao lên để kéo họ lên với Ngài, Ngài đã chịu chết vì họ và đã sống lại, để mang cho họ sức sống mới.

Vở bi hài kịch của năm xưa, mặc dù đã trải qua 2000 năm, vậy mà nó cứ vẫn diễn ra hằng ngày. Khi nghe đọc bài thương khó chắc chúng ta không khỏi đau lòng. Nhưng nếu nhìn lại, mỗi người cũng không khỏi giật mình. Nhiều khi chúng ta cũng góp phần vào những tiếng la vang dội, đòi đóng đinh Thiên Chúa của mình. Đôi lúc chúng ta cũng cộng tác với những người cầm roi, để làm cho thân thể nhiệm mầu thêm đau đớn. Cũng có những lần, chúng ta đệm thêm những chiếc gai nhọn, đặt lên đầu Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Thế mà chúng ta vẫn cứ ung dung tự tại, đôi khi còn tự hào về chính mình, tự hào vì mình đã đè bẹp được người khác, tự hào vì bao nhiêu người phải khiếp sợ khi nhìn thấy chúng ta. Cuộc sống hằng ngày chúng ta chỉ biết đòi hỏi để thỏa mản những nhu cầu riêng tư, vì tính ích kỷ đã vương lên quá cao, nên chúng ta bất chấp những thủ đoạn, miễn sao cho bản thân của mình có lợi. Còn người khác ra sao thì mặc kệ. Chúng ta cứ lạnh lùng trước những lời van xin thống thiết, cứ hành động mà chẵng biết đó có phải là sự công bằng hay không, vì con tim yêu thương mà Thiên Chúa đã đặt trong bản thân mỗi người, giờ đây chắc có lẽ, nó không còn có những nhịp đập bình thường nữa. Những lúc đó, là những lúc chúng ta cộng tác vào cái chết đau thương của Đấng đã từng yêu thương chúng ta. Những lúc đó, chúng ta đã muốn loại trừ Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Những lúc đó, chúng ta muốn đem Thiên Chúa của mình vào nghĩa địa, vì trong những lúc đó Ngài không thể phục vụ cho những lợi ích ngông cuồng của chúng ta, cho nên Ngài không còn hữu dụng, không còn cần thiết cho cuộc sống của mình nữa. Không lẽ, cái thế thái nhân tình của năm xưa, giờ đây lại hiện diện nơi chính bản thân của chúng ta sao? Không lẽ Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, chúng ta lại xem Ngài như một món đồ dùng hằng ngày, để khi nào có lợi thì chúng ta chạy đến van xin, khi nào Ngài cản trở những việc làm bất chính của mình, không phục vụ cho những lợi ích cá nhân, thì chúng ta loại trừ Ngài ra. Thế mà Thiên chúa vẫn yêu thương, vẫn tha thứ, Thiên Chúa vẫn kêu mời chúng ta hướng lên cao với Ngài, Thiên chúa vẫn thông truyền sự sống mới cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn mong muốn chúng ta được đỗi mới và sống trong vòng tay của Ngài.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi của Chúa, luôn bước đi trong tình thương của Ngài và có đời sống mới tốt đẹp hơn.


 

61. Tội lỗi của ta.

Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con đường, rải rác trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những lá cây của nhà mình vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra sao.

Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả, khi nhìn thấy những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa đó, dường như thể chúng chưa bao giờ hiện diện. Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là một trong những người này.

Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi cỏ và lối đi cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi, và tạo ra một mối nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền người khác vì tội lỗi của họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông thuộc loại người này.

Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp những lá cây của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó. Loại người này đại diện cho những người biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.

Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không chỉ thu gom những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những lá cây ngoài đường nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm thầm, không hề phàn nàn gì cả. Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất không hề phạm tội.

Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn núp phía sau người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Nếu biết nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất chúng ta có thể cố gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng loại và của cả thế giới nói chung.

Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là một phần tử ở trên mảnh đất của nhân loại.


 

62. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang và đau khổ

Lễ lá hôm nay cho thấy sự oai phong của Messia khởi hành vào đền thánh Giêrusalem. Ngài vào thành trong sự tung hô chúc tụng vang trời của dân chúng. Điều này rất hợp lý, vì Thiên chúa viếng thăm dân người thì đáng được dân Người đón tiếp trong niềm hoân hoan, trong tiếng tung hô vang dậy vì Người ngự đến là để cứu chuộc dân người và đem hòa bình cho các dân các nước. Tuy nhiên, mục đích vào thành của Chúa Giêsu không nhằm đến việc tung hô bên ngoài bằng môi miệng nhưng Ngài nhằm thực hiện lời sấm các tiên tri về Ngài.

Đức Giêsu vào thành trong những lời hoan hô chúc tụng của dân chúng vốn coi Người là Vị Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng có ý tỏ mình cho Israel và cho biết sứ mệnh thiên sai cao cả của Ngài. Tuy nhiên, dân chúng chưa hiểu đúng đắn mạc khải của Ngài. Đa số dân chúng còn nghĩ rằng sứ mệnh Mesia là đòan kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi của họ. Đức Giêsu cỡi lừa con vào thành là đi ngược lại ý tưởng đó, vì Chúa Giêsu không phải là ông vua dùng sức mạnh quân sự để bắt các dân làm nô lệ cho Isrel nhưng đến để cứu các dân khỏi nghèo khổ, đói khát, thù hận và những hình thức bất công. Ngài không đến để kết án người khác nhưng là để tha thứ cho họ. Ngài đến để cho dân chúng tìm được một cuộc sống có giá trị vững bền. Ngài tiến vào thành với tư cách một vị vua hiền từ cỡi lừa con tiến vào như Giacaria đã nói trước: Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!...Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Zac 9,9). Vị vua hiền từ này chiến thắng những thế lực thù địch mạnh nhất bằng cái chết trên thập giá chứ không bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên La mã.

Chúng ta là môn đệ Chúa hãy theo tinh thần của Chúa, sống phù hợp với niềm tin và luân lý yêu thương để làm chứng cho Chúa trước mặt người thế. Chúng ta không bắt chước dân Do thái đón nhận Chúa để rồi kết án thập hình cho Chúa nhưng đón nhận lời Chúa và giữ đúng đường lối Chúa dạy, biết vác thập giá hàng ngày để mai sau được vào vinh quang với Người.

Chúa Giêsu để dân chúng tung hô Người là con vua Đavid nhưng không vì thế mà người quên bổn phận chịu tử nạn để rồi Phục sinh. Chúng ta sống giữa thế gian không vì sự khen tặng, lôi cuốn, dễ dãi của thế gian mà xao lãng bổn phận người kitô hữu. Chúng ta theo Chúa không vì lợi lộc trần gian chóng qua nhưng vì hạnh phúc vĩnh cửu bền lâu Chúa sẽ ban cho.

Lạy Chúa Giêsu, trong ngày Chúa sắp chịu nạn này, chúng con bỗng nhớ đến những ý tưởng dại dột của mình. Chúa từ bỏ những lợi lộc trần gian vì chúng con. Vậy mà hôm nay chúng con đang còn tìm lợi lộc và danh lợi. Nhiều khi vì những danh lợi đó mà con xao lãng việc thờ phượng Chúa, đối xử bất công với anh em tha nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng con xin hứa sẽ thay đổi cuộc sống để làm sáng danh Chúa và mai sau được Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên đàng.


 

63. Thái độ.

Không có điểm nào trong việc trở nên nhạy cảm về nỗi đau khổ. Người ta có thể quá bị đụng chạm, đến nỗi họ trở nên cay cú, và sẽ không bù đắp lại được. “Một sự hy sinh quá lâu dài, có thể làm cho trái tim trở thành chai đá” (W.B. Yeats).

Tuy nhiên, nỗi đau khổ có thể trở thành một cơ hội. Đây không phải là vấn đề lý tưởng hóa nỗi đau khổ, nhưng là đương đầu với nó trong niềm hy vọng. Giá trị của nỗi đau khổ không hệ tại ở cảm giác đau đớn của nó, nhưng hệ tại ở thái độ của người chịu đau khổ. Nỗi đau khổ có thể thanh tẩy linh hồn con người, và biến đổi tính cách của người đó. Nỗi đau đớn có thể mang lại hiệu quả. Nỗi đau khổ là một phần thiết yếu trong quá trình trở thành con người thực sự, nghĩa là một người có lòng thương xót và trưởng thành.

Chúng ta không được coi nỗi đau khổ như là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt bất cứ ai. Quả thật Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ, chỉ vì điều tốt đẹp có thể xuất phát từ nỗi đau khổ mà thôi. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần với Người hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Người.

Thật là một sự an ủi lớn lao cho chúng ta, khi nhận biết rằng Đức Kitô, Đấng Vô Tội và Không Hề Phạm Tội, lại đi trên con đường đau khổ trước chúng ta, và Người đã đi đến tận cùng. Trên thánh giá, Người gom tất cả nỗi đau của nhân loại, và biến thành của riêng Người.

Trong suốt thời cộng sản, thi sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong các trại lao động ảm đạm ở nước Nga. Bà nói “Cách thức tốt nhất để giữ được nhân cách của bạn trong các trại này, là quan tâm nhiều hơn đến nỗi đau khổ của người khác, hơn là của bản thân bạn” Chúng ta không thể học hỏi được về lòng thương xót, nếu không biết đau khổ.

Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta nhận thấy cách thức Đức Kitô quan tâm đến người khác – Người quan tâm đến những phụ nữ thành Giêrusalem đồng cảm với Người, Người quan tâm đến tên trộm, và tất nhiên Người quan tâm đến mẹ của Người. Nơi Người, không có gì khác ngoài tấm lòng yêu thương. Ngay cả khi bị đóng đinh tay chân trên thánh giá, Người vẫn tiếp tục yêu thương.

Đức Giêsu không chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi đau khổ. Người đã chết để dạy cho chúng ta cách thức chịu đau khổ. Mặc dù con đường đau khổ chật hẹp và khó khăn, nhưng từ khi Đức Giêsu đi qua đó, thì nó không còn như vậy nữa. Một ánh sáng rạng ngời chiếu tỏa trên nó. Những ai biết liên kết những đau khổ của mình với những đau khổ của Đức Kitô, thì những đau khổ đó sẽ trở thành nguồn ân sủng cho toàn thể cộng đồng, và họ sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh của Đức Kitô.


 

64. Vụ án.

Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của “vụ án” này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.

Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.

Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: “Đúng như lời ngài nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa”. Theo luật Do thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.

Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.

Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.

Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.

Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.

Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: “Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ”. Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.


 

65. Vào thành.

Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài thơ vô danh như sau:

Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.

Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.

Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.

Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ Giavê:

Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.

Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.

Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.

Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.

Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.

Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.

Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.

Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.

Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.

Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi qua.


 

66. Chúa Nhật Lễ Lá B

"Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người"

Hôm nay dân Do thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem hết sức long trọng, đây là một hình thức đón tiếp vị vua chiến thắng vinh quang trở về. Họ lấy những cánh lá, trải xuống đường, tung hô vị vua của họ "hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến". Thật là náo nhiệt, thật là tưng bừng, biết bao nhiêu lời chúc tụng, biết bao nhiêu lời hoan hô, không thể đếm nổi, không thể kể hết được.

Do đâu mà có cảnh náo nhiệt tưng bừng này? Dịp này là đại lễ của người Do thái, mọi người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem để dự lễ. Trong số này có những người chưa hề nghe biết về Đức Giêsu, có người cũng đã nghe, người nghe ít, kẻ nghe nhiều và có những người từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm, nào là cho người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người bị quỷ ám được lành mạnh, người chết được sống lại, họ đã từng chứng kiến và hưởng nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư thừa; và họ đã từng nghe lời giảng của Ngài, họ thích thú nghe và Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền.

Trong đám đông dân chúng hôm nay, có rất nhiều thành phần, có những người tò mò hiếu kỳ, có những người ngưỡng mộ, có những người thọ ơn của Đức Giêsu... Những người này hò reo vang dậy để tung hô và đón rước Chúa vào thành.

Đáng buồn là những lời hoan hô chúc tụng không khéo dài được bao lâu, nó như một thứ lửa rơm mà thôi, bùng lên rồi tắt lim, bạo phát, nhưng cũng bạo tàng. Thật buồn cho Đức Giêsu trong hoàn cảnh này, tình người thật đen bạc, đổi trắng thay đen, như ông bà ta dạy "dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người". Chỉ mấy ngày sau đó, cũng những con người này, cũng những môi miệng này, cũng những cánh tay này, lại kết án Đức Giêsu, nhưng lời hoan hô chúc tụng không còn nữa mà thay vào đó những lời đả đảo, quá khích "giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá".

Ta không biết Đức Giêsu nghĩ gì? Nhưng có lẻ Chúa buồn lắm, buồn đến chết đi được, có lẻ Ngài đã cảm nghiệm được điều đó, nên Ngài đã cầu nguyện thống thiết với Chúa Cha trong vườn cây dầu "Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng theo ý Cha, đừng theo ý con". Buồn lắm nhưng cũng thương lắm, buồn vì lòng người đen bạc, nhưng thương vì con người đang bị tội lỗi thống trị cần phải được cứu chuộc. Cuối cùng thì tình thương đã chiến thắng, tình yêu đến thì nỗi buồn không còn nữa. Dù lòng người có thay đổi nhưng Chúa vẫn trung thành yêu thương cứu chuộc con người.

Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn trung thành sống ơn gọi làm con Chúa đến trọn đời. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa lấy tình thương mà đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh sống của chúng con. Amen.


 

home Mục lục Lưu trữ