Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1377518
CHỌN LỰA CÁC MÔN ĐỆ
Chọn lựa các môn đệ – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như vậy, không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều ta tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp nửa vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.
Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả đúng cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc sống của người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta một vài đặc điểm.
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng sau nhiều điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự công chính của Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại rất ít. Rất ít có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn mang theo tất cả mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì chẳng còn gì và sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít cả thể để theo Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.
Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của môn đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng, nhưng Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người và do con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường tình. Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là những điểm nói lên sự an toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ đệ của Ngài ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an toàn của con người, do con người tạo ra.
Thật là những lời khuyên, những mệnh lệnh, xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói là không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu giõng dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn của cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa lên đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho cuộc sống của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó hỏi:
- Có xe để di chuyển không?
- Nhà ở có máy lạnh không?
- Có người giúp nấu cơm cho ăn hay không?
- Trong nhà có tủ lạnh hay không?
- Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu?
- Có được đi nghỉ hè mỗi năm không? v.v…
Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho mình mọi sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả lời rất nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo phận của ngài nữa.
Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng dễ dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa của mình. Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ sống của người đồ đệ của Chúa.
Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao? Chúa Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: “Vào nhà nào chúng con hãy nói bình an cho nhà này”. Lời này loan báo trước lời chúc bình an của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các ông ra đi mang bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các môn đệ và nói: “Bình an cho các con”.
Được huấn luyện, được thực tập trước để rao giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các môn đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an này mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.
Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ được sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần tục, những sự an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột, bất hòa giữa cá nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên bình diện lớn thì sẽ gây chiến tranh giữa các quốc gia.
Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì cả.
Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng ta nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình lại về hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là: Thái độ từ bỏ mọi sự để theo Chúa không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan phòng chăm sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn chúng ta, để chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có thể chia sẻ sự bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và trong thánh lễ trước khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta được mời gọi nhớ lại lời hứa bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an, bình an mà thế gian không thể ban cho”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sự bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
38. Tử tế
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới. Thế giới có khoảng sáu tỉ người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không tới 3%. Có thể là đất nước Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng trên 10 triệu người Công giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm việc… Vậy ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy?
Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là các tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay, việc rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào trong Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những người tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Như vậy, thợ gặt là tất cả chúng ta.
Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến thế gian để chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh Bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng.
Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng, địa vị xã hội… Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, như Chúa đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói”, bởi vì “Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ những ai bệnh tật mới cần”. “Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời những người bất lương ăn năn trở lại”.
Tuy nhiên, công việc rao giảng không chỉ là của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý. Chính vì vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả. Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người. Việc sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh và điều kiện tốt, nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu Việt Nam chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa lấy gì làm sáng sủa của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm nay.
Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên là “Đại Dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế?”. Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều người ta mong đợi ở các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”.
Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.
Có người đã nói lên một sự thật đau lòng như sau: “Chữ tử tế” bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy”. Thật là một lời cảnh báo đáng cho chúng ta suy nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người quí hiếm trong xã hội. Và khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là những hành động không tử tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo chí hàng ngày chúng ta thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.
Sống cho tử tế, sống cho ra người là điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Tử tế thực sự không phải là có tiền hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được tập luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được của cuộc đời.
Một người bạn của đạo diễn Trần văn Thủy, trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc vì chúng ta đã sống tử tế với nhau”. Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm vui ngập tràn của 72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó. Đó là niềm vui của các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử tế trong một xã hội không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của những người Kitô chúng ta sao?
Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi mặt, nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Tất cả những điều chia sẻ trên đây mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ đến những công việc truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những việc nhỏ bé đơn giản, đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người bị bỏ rơi… chúng ta làm được những việc đó không?
39. Sứ giả
Một vị vua hoặc ông chủ tịch của nước Việt Nam chúng ta muốn sang thăm một nước nào đó thì phải làm gì đây – vị vua hoặc ông chủ tịch nước sẽ cử sứ giả hoặc đại sứ sang nước đó báo tin cho họ hay.
Cũng thế Tin Mừng hôm nay mà chúng ta vừa nghe cho thấy Chúa Giêsu muốn đến các thành, các nơi mà Chúa định đến nên Chúa đã làm hai việc là chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài, và trao cho các ông nhiệm vụ đến đó loan báo Tin Mừng bình an của Chúa.
Với việc tìm hiểu đoạn Tin Mừng này chúng ta sẽ nhận ra Chúa muốn nói gì với mỗi người chúng ta trong thế giới hôm nay.
Chúa Giêsu quyền năng đã biết trước và nhận thấy rõ số người sẵn sàng đón nhận Chúa rất nhiều. Nhiều đến nỗi mà Chúa đã ví họ như cánh đồng lúa trổ bông chín vàng mà lại có ít thợ gặt. Vì thế cho nên Chúa mới nói: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” và Chúa đề nghị các môn đệ hai nhiệm vụ:
Nhiệm vụ thứ nhất là cầu nguyện. Thiên Chúa là ông chủ của mùa gặt, Thiên Chúa có quyền quyết định những ai được vào Nước Trời. Vì thế, Chúa kêu gọi các môn đệ cầu nguyện để xin Thiên Chúa khơi lên trong lòng con người tinh thần làm môn đệ Chúa, sẵn sàng làm sứ giả của Chúa.
Nhiệm vụ thứ hai là “Hãy ra đi loan báo Tin Mừng bình an”. Cầu nguyện chưa đủ nhưng còn phải lên đường ra đi loan báo Tin Mừng bình an. Trước khi đi Chúa Giêsu căn dặn rất kỹ:
Hành trang phải nhẹ tênh: không túi tiền, không bao bị, không giày dép để thực sự trở nên nghèo khó như Chúa Giêsu. Công việc thì cấp bách nên đừng chào hỏi ai dọc đường. Đến nơi đâu thì đầu tiên phải nói lời chào thân thiện “Bình an cho nhà này”. Đây không phải là bình an mà thế gian ban tặng dựa trên của cải vật chất, danh vọng… nhưng là bình an mà bài đọc I tiên tri Isaia đã loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho Giêrusalem: “Này Ta đổ hòa bình tuôn xuống thành đô khác nào dòng sông cả, khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ…”. Bài đọc II cho biết: Bình an đó là chính Đức Kitô đã đến trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc khổ nạn thập giá, dẫn đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Một thái độ phải có là khiêm tốn, siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu. Một công việc phải làm là chữa lành bệnh tật những người ốm đau. Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui là “Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em”. Tuy nhiên, cũng phải đón nhận sự tự do từ chối của người ta nhưng cũng phải loan báo cho người ta biết rằng “Nước Thiên Chúa đã đến gần”.
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là câu chuyện cách đây hơn 2000 năm, nhưng thử hỏi đến lúc này Tin Mừng đã có bao nhiêu người được đón nhận.
Thế giới có trên 6 tỷ người mà những người tin vào Thiên Chúa chỉ mới có 1 tỷ, và cũng có những người có đạo nhưng không sống đạo. Riêng tại Á Châu, trong 100 người thì còn hơn 97 người chưa biết Chúa. Và chúng ta phải suy nghĩ lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu là “Một điều thật bí ẩn là tại sao Đấng Cứu Thế sinh ra tại Á Châu, mà cho tới bây giờ phần lớn châu lục này vẫn không biết Người”. Thử nhìn ra trong khu xóm hoặc xung quanh chúng ta, còn bao nhiêu người chưa biết Chúa. Chắc chắn là đông như cánh đồng lúa chín mà Chúa đã nhìn thấy trước rồi phải không.
Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an” cho mọi dân tộc, đặc biệt là dân tộc Á Châu vẫn luôn vang dội trong tâm hồn mỗi chúng ta, và càng khẩn thiết hơn khi bước vào ngàn năm thứ ba. Cùng với Hội thánh chúng ta “Hãy ra khơi” trở nên những sứ giả loan báo Tin Mừng bình an. Trong giới hạn của đất nước Việt Nam chúng ta, Chúa sẽ mời gọi mỗi người đi loan báo Tin Mừng mỗi cách khác nhau.
Thông thường chúng ta nghĩ việc loan báo Tin Mừng chỉ dành cho các Giám mục, Linh mục, Phó tế và tu sĩ nam nữ, mà quên đi rằng ngay từ lúc lãnh nhận Bí tích Rửa tội mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng bình an rồi.
Cầu nguyện mỗi ngày và đóng góp quỹ truyền giáo hằng năm vào lễ “Khánh nhật truyền giáo”.
Sống chứng nhân nơi mình đang sinh sống, làm việc trung thực trong mọi hoàn cảnh, chia sẻ những khó khăn, nếu có thể được thì thăm viếng an ủi, đem tình thương và bình an cho những người ốm đau bệnh tật, nghèo khổ và cô đơn…
Nếu thực hiện được như thế thì chúng ta đã và đang loan báo Tin Mừng bình an rồi đó và tên của chúng ta đã được Chúa khắc ghi.
Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa, chúng ta phải sống làm sao để nên như sứ giả loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Điều đó, Chúa Giêsu vẫn đang nhắc nhở mỗi người chúng ta nhất là khi tham dự thánh lễ là lúc chúng ta đón nhận bình an từ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu ở lời chào đầu lễ của chủ tế, rồi chúng ta lại trao bình an đó cho nhau lúc “chúc bình an” và cuối thánh lễ chủ tế xướng lên “lễ xong chúc anh chị em ra đi bình an” đó là lúc chúng ta nhận sứ mạng mang bình an đó cho mọi người.
Ước gì lời Chúa hôm nay qua việc Chúa chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài là động lực nhắc nhở mỗi người chúng ta một lần nữa “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an”.
40. Tất cả những người cô đơn
Tôi xin được trích một phần của bản nhạc "Eleanor Rigby" từ thời 1966 của ban nhạc Beatles:
Ôi, hãy nhìn những con người cô đơn: Eleanor Rigby đang lượm những hạt gạo ở trong nhà thờ sau một đám cưới, và sống trong mơ mộng... Những người cô đơn đến từ đâu vậy? Những người cô đơn ở đâu vậy?
"Eleanor Rigby" đã làm một phần của phong trào âm nhạc hiện thời mà có thể giúp cho người nghe không thể nào mà không mủi lòng, và nó đã gây ảnh hưởng rất nhiều cho giới trẻ. Bản nhạc đó vẫn còn đánh vào tim đen của con người. Nó vẫn còn đặt ra một câu hỏi, "Thế nào là một con người hoàn thiện?" Nhìn xung quanh, chúng ta thấy rất nhiều người đang phải đương đầu với nhiều vấn đề. Tận thâm tâm của mỗi người đều đang dâng lên một câu hỏi, "Đi đâu để tìm một cuộc sống hạnh phúc?" "Ai có thể chỉ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc?" Không ai giàu có mà mãn nguyện cả. Người nghèo phải chiến đấu để mà sống. Còn những người thuộc vào cấp trung lưu thì có cả đến ngàn cuốn sách đã ghi về cuộc sống buồn chán của họ. Nếu thật sự cả ba giới trong xã hội đều là như vậy thì con người có thể nào tìm được hạnh phúc không?
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta một đầu mối quan trọng cho câu hỏi ở trên. Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã chọn 72 tông đồ và sai họ đi vào các thành để chuẩn bị cho dân chúng ở đó đón tiếp Ngài. Nhiệm vụ của họ chính là nói cho dân chúng biết Chúa Giêsu đang đến với một sứ mạng cao cả. Chúa Giêsu được sai đến từ Thiên Chúa. "Hãy chữa những người bệnh tật", và nói cho người ta biết rằng "Nước Thiên Chúa đã đến gần," Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ (Lc 10:9). Đồng thời Chúa Giêsu cũng căn dặn các tông đồ những điều các ông nên làm và không nên làm. Các tông đồ ra đi và thâu lượm được nhiều kết quả, và các ông thuật lại cho Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỉ cũng phải khuất phục chúng con" (Lc 10:17). Chúa Giêsu trả lời họ, "Anh em chớ mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời" (Lc 10:20). Phần đầu tiên của câu Phúc Âm vừa rồi không có gì khó hiểu cả. Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ của Ngài rằng đừng sống dựa vào những cái vinh dự mau qua. Cái vinh dự trừ quỉ hoặc làm được những phép lạ này nọ, đó chính là điều mà con người chúng ta thường hay bám vào. Chúng ta thường bám vào những cái gì là vinh quang chóng qua ở đời này.
Phần thứ hai không phải là một điều dễ hiểu khi Chúa Giêsu nói tên các con được ghi ở trên trời.
"Các Mối Phúc Thật", như các bạn đã biết đó là những lời mở đầu của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, là một danh sách ngắn những điều thỏa nguyện. Đáng tiếc thay, rất nhiều người đi tìm hạnh phúc mà không phải đi theo lối của các mối phúc thật. Vấn đề là ở chỗ họ đã quá tập trung vào những cái không được làm cái này cái nọ mà đã đưa đến việc kết luận là những điều Chúa Giêsu thì chỉ là mơ hồ và không thể nào đạt nổi. Họ có thể quên hoặc không biết rằng sứ điệp của Chúa Giêsu không phải là, "Nếu con yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ, và đưa má bên kia, thì con sẽ được hạnh phúc." Ngược lại, những người được chúc phúc và hạnh phúc sẽ yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ họ, và đưa má bên kia. Nói một cách khác, không phải, "Nếu anh đã có vợ, và nếu anh không đi ngoại tình thì anh là người được hạnh phúc." Nhưng là, "Nếu anh đã có vợ và sống dựa trên Lời Chúa, anh là người hạnh phúc, và anh sẽ không đi theo người đàn bà khác."
Mối phúc thứ nhất trong 8 Mối Phúc Thật là phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó. Điều đó có nghĩa là những ai có tinh thần nghèo khó mà biết rằng mình thiếu thốn. Khi họ nhận biết được điều đó, họ phải biết cậy trông vào Chúa để nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó bởi vì họ sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể làm cho lòng họ được thỏa nguyện.
41. Tinh thần nghèo khó
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta? Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp: Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này? Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói: Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
42. Sứ mệnh hòa bình – An Hạ
Điều quan trọng nhất trên đời này là cái gì? Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời vừa lòng mọi người. Tùy cái nhìn, mỗi người sẽ có câu trả lời khác nhau. Câu trả lời sẽ xác định tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời.
ĐIỀU QUAN TRỌNG
Thánh Phaolô đã đưa ra câu trả lời chính xác nhất: "Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới" (Gl 6:15) trong Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là, nhờ cái chết và phục sinh, Đức Kitô đã trở thành Ađam mới để biến cải toàn thể tạo vật tự bên trong. Vạn vật sẽ sống trong trời mới đất mới, tràn ngập "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần." (Rm 14:17)
Đó là lý tưởng phải đạt tới ngay trên mặt đất này. Quả thực, chính để xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian, Đức Giêsu mới sai các môn đệ "như chiên con đi vào giữa bầy sói" (Lc 10:3) với một sứ mệnh duy nhất là loan báo cho muôn dân biết "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." (Lc 10:9.11) Dù phải thực hiện sứ mệnh cao cả và vô cùng khẩn thiết đó giữa bầy sói, người môn đệ không bao giờ được phép chối bỏ bản chất "chiên con" của mình. Đánh mất bản chất hiền lành, họ không thể thực hiện sứ mệnh hòa bình giữa muôn dân. Làm sao có thể sống và thể hiện sứ mệnh đó giữa một thế hệ sa đọa gian tà này? Đức Giêsu đã hứa: "Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em." (Lc 10:19) Nếu tin, người môn đệ sẽ thấy tất cả sức mạnh Tin mừng.
Để thi hành sứ mệnh hòa bình, trước tiên người môn đệ phải sống và thể hiện sứ mệnh đó ngay trong cuộc sống. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu "sai các ông cứ từng hai người một." (Lc 10:1) Theo đường hướng đó, các môn đệ dễ hỗ trợ nhau và làm cho chứng từ của họ có tính cách xác thực (Đnl 19:15) Ngay từ đầu Giáo hội đã có một cặp truyền giáo nổi tiếng là thánh Phaolô và Banaba (x. Cv 13). Các ngài đã thành công vì suốt đời không ngừng đeo đuổi sứ mệnh hòa giải và hòa bình giữa muôn dân.
Còn biểu tượng nào diễn tả cảnh hòa bình cho bằng cảnh chiên con nằm chung với chó sói (x. Is 11:6; 65:25). Đó là hình ảnh tuyệt vời đến siêu thực. Đó cũng là sứ mệnh hòa giải khó khăn nhất người môn đệ phải thực hiện trên bước đường truyền giáo. Dĩ nhiên đứng trước sói dữ, chiên con hoàn toàn bất lực. Cũng thế, vì thiếu phương tiện tự vệ, các nhà truyền giáo cũng không thể đối đầu với kẻ thù. Đức Giêsu đã biết trước tất cả những nguy hiểm đó. Chính Người cũng đã phải đối mặt với khổ đau và cái chết. Người môn đệ cũng phải chia sẻ cùng một thân phận. Nhưng khổ đau và cái chết không phải là dấu chỉ của sự bất lực hay thất bại. Trái lại, đó là một niềm vinh dự lớn lao như thánh Phaolô nói: "Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô." (Gl 6:14)
Người mạnh mẽ bảo đảm với các môn đệ: "Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên mọi thế lực Kẻ Thù." (Lc 10:19) Các môn đệ chia sẻ cùng một quyền bính với Thầy. Quyền năng ấy phát sinh từ ánh sáng Phục sinh. Thực thế, "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất." (Mt 28:18) Các quyền lực ác thần đã bị tấn công và thảm bại nơi sứ vụ của Đức Giêsu và Giáo hội. Trong Công vụ Tông đồ, thánh Luca thường kể lại cách thức Chúa Giêsu đã cứu các nhà truyền giáo thoát khỏi những lực lượng tiêu hủy (ví dụ 28:1-6) Những lực lượng đó là tất cả các loại ác thần, biểu tượng qua các hình ảnh rắn rết và bọ cạp (x. The New Jerome Biblical Commentary 1990:701).
Chiến thắng các lực lượng đó không phải là nguyên nhân làm cho các môn đệ hăm hở trên bước đường chinh phục thế giới cho Đức Kitô. Nguyên nhân chính là ân huệ lớn lao Chúa dành cho trên trời. Nơi đó họ hoàn toàn trở thành thụ tạo mới với tất cả niềm vui lớn lao phát sinh từ lòng Chúa xót thương. Từ đó họ mới thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của một cuộc sống bình an và ân sủng trên quê trời. Họ trở thành công dân Nước Trời.
PHÚC ÂM HÓA
Nhưng để đạt mục tiêu đó, ngay từ bay giờ người môn đệ Đức Kitô phải nhận định rõ thực tại cuộc sống và nỗ lực phúc âm hóa môi trường theo đúng sứ mệnh Chúa đã trao. Xã hội Hoa kỳ đang đối mặt với thách đố phải phúc âm hóa "một xã hội ngày càng lâm nguy vì quên mất nguồn gốc linh thiêng của mình." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Trong mọi cơ cấu và sinh hoạt đều đang bị trần tục hóa.
Trước tình trạng đó, người môn đệ Đức Kitô phải làm gì? Trước hết, họ phải biết đây là "giờ hành động của giáo dân." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Giáo dân không còn phải là thành phần thụ động, nhưng phải tích cực hoạt động cho việc phúc âm hóa môi trường. Họ hiện diện khắp nơi. Sự hiện diện đó phải có một ý nghĩa và chiều kích mới. Chiều kích đó bắt đầu từ việc "chấp nhận thách đố. Điều đó đòi phải có một sự hiểu biết sâu rộng và thực tiễn về những dấu chỉ thời đại để triển khai việc trình bày đức tin Công giáo sao cho thuyết phục được người nghe." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Dĩ nhiên không tùy thuộc vào khoa hùng biện cho bằng một đời sống gắn liền với đức tin. Trái lại Giáo Hội Hoa Kỳ "được kêu gọi đáp ứng những nhu cầu và khát vọng tôn giáo của một xã hội ngày càng có nguy cơ lãng quên những nguồn gốc linh thiêng của mình và khuất phục trước một thế giới quan hoàn toàn duy vật và vô hồn." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Muốn hoàn thành sứ mệnh cao cả giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu phải bắt đầu từ đâu? Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến nhu cầu "chuẩn bị cho giới trẻ đặc biệt biết đối thoại với những người đồng thời về sứ điệp Kitô và sự thích hợp của sứ điệp ấy trong việc xây dựng một thế giới công bình, nhân bản và hòabình hơn. Trên hết, bây giờ là thời điểm giáo dân được kêu gọi thi hành sứ mệnh ngôn sứ của Giáo hội mà phúc âm hóa các lãnh vực khác nhau trong đời sống gia đình, xã hội, nghề nghiệp và văn hóa, vì họ được kêu gọi uốn nắn thế gian theo Tin mừng." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Công cuộc lớn lao đó không thể thực hiện nếu chỉ nhắm vào cá nhân. Trái lại, "với hệ thống các cơ quan giáo dục và bác ái vĩ đại, Giáo hội Hoa Kỳ đứng trước thách đố phải phúc âm hóa văn hóa để có thể lấy ra?những thứ mới cũ? từ kho tàng khôn ngoan của Tin mừng." (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Sống trong xã hội Hoa kỳ, người Công giáo Việt Nam không thể không quan tâm đến những vấn đề lớn lao đó. Từ niềm tin đặc thù của mình, liệu chúng ta có thể góp phần cho Giáo hội tại đây vượt qua những thách đố của thời đại hôm nay hay không? Chắc chắn tự bản chất linh thiêng của nền văn hóa Việt Nam, nếp sống đạo của chúng ta sẽ làm sống lại những gì đã mất trong xã hội Hoa kỳ hôm nay.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam