Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1378462
CHỦ CHĂN ĐƯỢM MÙI CHIÊN
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Sau năm 1954, noi theo gương vị Mục Tử Nhân Lành, cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc (1902–1995) đã thốt lên: “Vì yêu giáo dân mà tôi ở lại miền Bắc.” Sau hiệp định Genève, các linh mục ở lại miền Bắc lúc đó, phải chấp nhận cảnh đấu tố, giam cầm. Cha bị giam mấy tháng ở chuồng trâu của một người lương dân xóm Hồng Sơn, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Rồi bị đấu tố ở Chiêu Ứng, sau đó còn bị điệu đi Đồng Xa, Đại An, Trù Mật để cho chính những người đã được cha già cưu mang, vu oan cáo vạ! Thế nhưng sau vụ đấu tố đó, những giáo dân này vẫn được cha già yêu thương, tin dùng và nâng đỡ. Có người hỏi: “Sao cha vẫn dùng họ?” Ngài trả lời: “Họ nhẹ dạ, họ mắc mưu, chấp làm gì!”
Một số cha trẻ di cư vào Nam, một số cha già được Chúa gọi về dần, các chủng viện bị đóng cửa, các giáo xứ dần dần vắng bóng chủ chăn. Cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc là cha xứ Chiêu Ứng, nhưng đồng thời phải coi sóc giáo dân tận Lào Cai, Sapa, cách xa ba bốn trăm cây số, trong khi phương tiện đi lại chỉ là một chiếc xe đạp Super Globe. Vào những năm cuối đời, dù đã tám chín mươi tuổi, cha Phêrô vẫn còn phải coi sóc thêm những giáo xứ như Phi Đình, Trù Mật, Vân Thê,… trên mười ngàn giáo dân.
Coi sóc nhiều như vậy, cha già không những đến dâng lễ, ban các bí tích, mà còn lo xây dựng đức tin và cơ sở vật chất nữa. Tất cả những nơi cha già coi sóc đều được chính ngài đứng lớp, ôn thi kinh bổn, giáo lý, mỗi năm hai kỳ vào dịp Lễ Phục sinh và Lễ Các Thánh.
Các hội đoàn như Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, Hội Mân Côi, Hội Thánh Phêrô, Hội Thánh Antôn,… do ngài thành lập vẫn sinh hoạt đều đặn. Riêng nơi cha già trông coi, các cuộc rước hoa, rước Thánh Thể vẫn tổ chức rất long trọng. Các nơi thờ tự trong địa bàn cha già coi sóc vẫn được sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới, trong khi tại các xứ khác bị phá hủy, hoặc không được tu sửa.
Với tinh thần quảng đại, tha thứ và yêu thương phục vụ, cha già Phêrô còn tích cực hỗ trợ nhiều nơi xây dựng trường sở rộng rãi cho con em học văn hóa, như trường phổ thông cơ sở Sơn Cương, trường Ninh Dân thuộc huyện Thanh Ba, trường Văn Lung thuộc thị xã Phú Thọ. Những gia đình nghèo khổ luôn được cha quan tâm: cha giúp họ tiền đong gạo, cha không nhận bổng lễ khi họ đến xin lễ. Suốt đời cha không sắm cho mình một vật gì sang trọng; cha thường nói: “Chúa Giêsu sống nghèo, tôi cũng sống nghèo; Chúa Giêsu bênh vực người nghèo, tôi cũng đi với người nghèo.”
Nói đến tinh thần kỷ luật của cha già là phải nói đến việc giữ giờ giấc: giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc trí óc, giờ lao động chân tay, giờ dâng lễ, giờ cầu nguyện; sáng, trưa, tối, mùa hè oi bức cũng như mùa đông giá lạnh, không khi nào cha sai giờ. Điều đáng khâm phục là khi ngài báo giờ lễ ở một nơi nào, dù xa xôi (như Đồng Xa, Trù Mật) mà không thể đi xe được vì thời tiết quá xấu, ngài quàng áo mưa, chống gậy đi bộ cho kịp giờ đã định. Và cũng có thể nói, trừ những tháng bị giam giữ năm 1954, ngài đã không bỏ một thánh lễ nào. Sáng ngày 28 tháng 11 năm 1995, ngài dâng thánh lễ cuối cùng, sau đó thấy mệt, tuy được các y bác sĩ điều trị, nhưng tối hôm đó ngài đã an nghỉ trong Chúa. (Gp Hưng Hoá)
Linh mục Phêrô Doãn Quang Ngọc thấm nhuần thiên chức, đã can đảm sống cho, sống vì và sống với đoàn chiên, để tận tuỵ chăn dắt và chăm lo các bổn đạo. Chúng ta thành tâm biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng một chủ chăn tốt lành. Đồng thời ca ngợi, tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, đã ưu ái dân Người.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh hôm nay, Chúa Chiên Lành tha thiết mời gọi tất cả con chiên khắp nơi trung kiên đi theo. Người biết rõ từng khuôn mặt, tên tuổi, cũng như tính tốt lẫn thói hư tật xấu của từng con chiên. Dầu bạc nhược, bệnh hoạn, yếu đuối, tất cả cũng đều được Người ân cần an ủi, băng bó, vỗ về, phục hồi và ban sự sống, nếu biết nghe và theo Người.
Chiên nghe và theo
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.” Nghe Lời Chúa là môt diễm phúc, một ơn phước, không phải ai cũng được hân hạnh được lãnh nhận, dẫu quyền cao chức trọng mấy đi nữa cũng chẳng được biệt đãi, như thói đời. “Vì chưng Ta bảo các ngươi, nhiều tiên tri và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều các ngươi thấy, nghe điều các ngươi nghe, mà đã không được nghe.” (Lc 10,24)
Hơn nữa, nghe lời Chúa còn là một đặc ân cứu rỗi.“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5,24) Bởi vì Lời Đức Giêsu bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Cha. “Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói.” (Ga 8,26)
Nghe Lời Chúa và theo Chúa chính là thực hành những điều Người dạy, mới thuộc về Thiên Chúa, về đàn chiên Người chăn dắt và chăm sóc. “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.” (Ga 8,47) Đức Giêsu còn tái khẳng định một vĩnh phúc, một niềm hy vọng vĩ đại cho con người. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 8,51)
Chủ Chăn nói và biết
“Chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Lời Chúa luôn mời gọi từng người, từng ngày, từng phút giây trong đời. Phúc thay cho ai luôn biết tỉnh thức, lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Không bao giờ cạnh tranh, chen lấn, đua đòi, kèn cựa, trong cơn bão truyền thông hiện đại, Lời Chúa thường chỉ âm thầm, lặng lẽ văng vẳng trong thinh lặng, trong cõi cô tịch hiu quạnh, trong hoang mạc vắng vẻ, trong đêm thâu trầm lắng canh thức. Như thầm thì qua lương tâm, khuyên nhủ qua những vị chủ chăn nhân lành, nhắc bảo qua các đấng sinh thành đạo đức, tâm tình chia sẻ qua những thân bằng quyến thuộc khôn ngoan theo Chúa. Nhưng công khai, tỏ tường và trường cửu hơn cả, Lời Chúa rất minh bạch, rõ ràng, rạng ngời, sáng chói trong Kinh Thánh, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh. Lời Chúa vốn là sự thật, là chân lý bất biến, bất diệt, mãi hợp lý, hợp thời mọi lúc mọi nơi. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi!” (Mc 13,31)
Qua suốt ba mươi ba năm nhập thể, Đức Giêsu đã trải qua hầu hết gian nan, khốn khổ, cực nhọc của kiếp người. Nhất là qua cuộc khổ nạn và chịu chết tức tưởi trên thập giá, Người đã cảm thông, thấu hiểu được tất cả nỗi khổ đau của nhân loại, nỗi cùng cực của người công chính, đạo đức, nhân ái, tử tế. Người chẳng còn lạ gì thói giả hình, thói điêu ngoa, ngậm máu phun người, thói kiêu căng, hãnh tiến, háo danh, hống hách, thói tráo trở, háo lợi, bất nghĩa, bất tín, bất trung, vì chính Người từng là nạn nhân. Nên Người luôn mời gọi những tâm hồn gian khổ, đày đoạ, hãy đến với người an ủi, che chở và cứu rỗi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gồng gánh nặng nề. Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các con sẽ được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30)
Hơn nữa, Chủ Chăn Nhân Lành còn quan tâm, chăm sóc, còn hiểu thấu đáo đến từng con chiên. Dù lạc mất một con chiên, Người cũng đành bỏ lại chín mươi chín con ngoài đồng hoang, mà ráo riết, vội vã, đi tìm về cho bằng được. Tìm được rồi, Chủ Chăn hoan hỷ, mừng rỡ mời láng giềng đến chung vui. “Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn!” (Lc 15,5-7)
Chủ Chăn bảo vệ và ban sự sống
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” Chủ Chăn còn là cửa chính, nẻo ngay, đường duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. Con chiên vâng lời, nghe theo sẽ no thoả trong đồng cỏ xanh tươi. Người luôn chăm sóc, bảo vệ khỏi mãnh thú hung ác, bạo tàn, vì “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.” Người đã thực hiện đúng như lời đã hứa: Chịu khổ nạn và chịu chết để chuộc tội nhân loại, cho con người khỏi bị án phạt, mà được sống viên mãn.
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.” Những người chăn thuê, mạo danh chủ chiên, hay sói đội lốt chiên, lòng dạ ác độc, chẳng khác kẻ trộm cướp, chỉ vì lợi danh, đến lạm dụng, xén lông, làm thịt, chia rẽ, nghi kỵ, phân hoá, làm tan tác cả đàn chiên. “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên.”
“Lãnh đạo phải trở nên mọi sự cho mọi người, trong bất cứ trường hợp nào, chấp nhận mọi thứ công việc, nhọc mệt, chống đối và khi cần phải hy sinh cả mạng sống con để mưu ích cho đoàn thể, nhưng đừng bao giờ làm giảm sút sự lo lắng cho chính linh hồn con.” (Đường Hy Vọng, số 881)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Chủ Chăn Nhân Lành, xin luôn mãi gọi tên chúng con, luôn thức tỉnh chúng con khỏi sa chước cám dỗ hoang đàng, khỏi những phù phiếm lợi danh thế gian, khỏi thói vị kỷ, chiều chuộng, dễ dãi, o bế thân xác yếu đuối. Xin dẫn dắt, giúp đỡ, khích lệ chúng con dấn thân, vác thập giá hằng ngày, kiên trung theo Chúa trên đường hy vọng đầy chông gai thách thức.
Xin Mẹ Maria rất thánh thương ban cho chúng con những vị Chủ Chăn Nhân Lành, đến yêu thương dạy dỗ, hướng dẫn, chăm sóc, che chở chúng con được bình an và được sống viên mãn. Amen.
58. Chiên nghe theo chủ chăn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Theo một tư liệu mới được tìm thấy, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng Gustav Holst (1874-1934) thường chơi kèn trombone, khi từ London trở về nhà ở Cheltenham. Lúc đó Holst đang là sinh viên của Trường Âm nhạc Hoàng gia Anh và do quá nghèo, không có tiền mua vé tàu hỏa, nên phải đi bộ về nhà. Ông thường tập kèn mỗi khi đi qua cánh đồng, vì nghĩ rằng nơi đó vắng vẻ, không làm phiền tới ai.
Có lần Holst mải mê “biểu diễn” trên một quả đồi ở Cotswold trong vài tiếng và bị một nông dân tìm tới mắng mỏ, rằng tiếng kèn “như còi tàu hỏa” đã làm con cừu của ông ta đẻ non. (Internet)
Cừu, hay chiên (Ovis aries) là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu là loại dễ tính, có thể ăn các loại cỏ khô cằn, ưa khí hậu khô, không chịu ẩm ướt.
Bài Tin Mừng thánh Gioan hôm nay chỉ gói gọn trong ba câu thật ngắn ngủi, súc tích, sâu sắc và thấm thía. Chúa Giêsu là Mục tử chăm sóc đàn chiên dân Chúa.
Vốn hiền lành, dịu dàng, nên chiên hay bị thú dữ đe dọa, nhất là chó sói hung bạo. Vì vậy, thính giác loài chiên rất phát triển để củng cố bản năng sinh tồn. Do đó, con chiên có thể nghe được nhiều cách khác nhau.
Con chiên nghe mùi
Hương vị đặc trưng của đoàn chiên giúp con chiên dễ nhận ra nhau. Đồng thời cũng dễ dàng nhận ra chủ chăn thân thương, gần gũi qua mùi cố hữu đó. Dĩ nhiên chủ chăn phải thực sự sống cùng, sống với và sống cho đoàn chiên, thì mới nồng nàn đượm mùi chiên. Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các linh mục tại Đền Thờ Thánh Phêrô, hôm Lễ Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh 28/3/2013, cũng nhấn mạnh: “Cha mời gọi các con điều này: Các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên!”
Mùi chiên của người mục tử nhân lành tỏa ra từ thái độ, lời nói, hành động chan chứa tình cảm trìu mến. Phong cách, suy tưởng, tình cảm và quan điểm của chủ chăn đều bộc lộ trực tiếp, hay gián tiếp mỗi khi gần gũi đàn chiên. Nếu là kẻ chăn thuê thì chỉ tanh tưởi mùi bạc, ngầy ngậy bơ sữa bổng lộc chức tước. Nếu là kẻ chăn giả mạo thì nồng nặc tà khí man trá, lạnh lẽo, lưu manh. Con chiên tuy hiền lành, nhưng rất bén nhạy đánh hơi xem mùi thân thuộc, hay lạ, dễ dàng tìm ra chủ chăn chính đáng nhân lành hay kẻ chăn thuê, hoặc giả mạo.
Chúa Giêsu còn ân cần nhắc nhở, cảnh báo: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.” (Ga 10,12-13)
Con chiên nghe thấy
Không chỉ nghe mùi, con chiên còn nghe thấy chủ chănâu yếm gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng đã nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10,3-5) Như thế, con chiên còn nhận biết chủ chăn qua nếp ứng xử, qua sự chăm sóc tận tụy, vì chủ chăn biết rõ tên tuổi, cá tính, sức khỏe, nhu cầu và tâm trạng từng con chiên.
Chứng kiến sự tận tâm, hy sinh, con chiên mới gắn bó, yêu thương chủ chăn. Mà không nỡ đi theo người lạ, kẻ gian hay người làm thuê. Nếu con chiên lỡ ham vui, đi hoang lạc bầy, thì chủ chăn nhân lành cũng vẫn bỏ 99 con chiên ở lại, để đi tìm cho bằng được một con chiên bị lạc.
Vì thuộc về chủ chăn nhân lành, con chiên cảm nhận được sự ưu ái cụ thể, như xua đuổi sói dữ, băng bó, chữa lành thương tích, ôm ấp vác lên vai, dẫn dắt về tận chuồng trại nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Con chiên nghe tiếng
Không chỉ ban ngày, mà ngay đêm khuya thanh vắng, con chiên vẫn văng vẳng nghe tiếng chủ chăn tâm tình, dỗ dành, vuốt ve, an ủi, căn dặn, dạy dỗ. Thậm chí còn hy sinh vì đoàn chiên.” Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (Ga 10,14-15)
Đắm mình trong suy tư, cầu nguyện, con chiên có thể nghe tiếng Chủ Chăn nhân lành qua Lời Chúa, qua Thánh Kinh, và các dấu chỉ chung quanh. Đây chính là động thái tích cực của con chiên để hiểu và nghe theo Chủ Chăn. Một sự hợp tác cần thiết phải có, để con chiên nghe được tiếng chủ chăn bảo vệ, hướng dẫn đến dồng cỏ xanh non, suối mát dịu ngọt.
Con chiên luôn cần tỉnh thức đế lắng nghe Chủ Chăn gọi. Như xưa kia ngôn sứ Samuen đang ngủ, nghe tiếng gọi của Thiên Chúa ba lần, nhưng đã không nhận ra, cho đến khi được thầy tư tế Êli hướng dẫn. (I Sm 3:1-10).
Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tời dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính,
vì danh dự của Người. Lạy Chúa,
dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm. (Tv 23)
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các vị lãnh đạo của Giáo Hội Chúa. Xin giúp chúng con bỏ qua những lỗi lầm của họ để nhận ra con người thực của họ: là các dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Chúa giữa chúng con. (Lm. Mark Link, SJ)
Lạy Mẹ Maria, xin cho con luôn nhớ Mục Tử Nhân Lành đã hy sinh chịu chết vì đoàn chiên. Xin Mẹ cho con nhận ra tình thương cao cả và nhắc nhủ con luôn sống xứng đáng với tư cách con chiên của Người.
59. Cha mẹ trong vai trò mục tử
Thánh Gioan đã trình bày cho chúng ta thấy hình ảnh người mục tử, một người mục tử biết từng con chiên của mình, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và làm cho chiên không bao giờ phải diệt vong nhưng được sống dồi dào.
Khi dùng hình ảnh người mục tử sẵn sàng hy sinh đời mình cho đoàn chiên, Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta biết chính Ngài là mục tử nhân lành, hiến trọn đời mình cho chúng ta là đoàn chiên của Ngài. Thông thường khi nghe nói tới hai chữ mục tử, chúng ta thường nghĩ đến nhiệm vụ của các Giám Mục và các Linh Mục. Nhưng hôm nay, tôi muốn nói cho moi người biết thêm một thành phần khác cũng được chia sẻ sứ vụ mục tử nữa, đó là những người chúng ta, là những bậc làm cha làm mẹ trong gia đình, phải là mục tử nhân lành, hết tình thương yêu lo lắng chăm sóc cho đoàn chiên là những đứa con của mình.
Ở Việt Nam và nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long hình ảnh người mục tử chăn chiên rất là xa lạ với chúng ta, nhưng có lẽ hình ảnh người chăn vịt lại gần gũi và quen thuộc với chúng ta hơn. Người chăn vịt thì lúc nào cũng tìm những nơi có mồi như là cá, tép, ốc, cua… để đưa vịt tới đó. Chưa hết đâu, người chăn vịt còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt bị cáo chồn hay kẻ trộm bắt, rồi còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt đi phá lúa hay là phá những ao của người ta. Khi có con vịt nào lạc bầy thì phải đi tìm, khi con nào phạm mồi, ăn phải mồi độc thì phải biết cứu chữa, làm thuốc để giã chất độc mà cứu con vịt đó.
Người chăn vịt là thế, còn chúng ta là những người được Chúa trao phó cho một đàn chiên, hay là một bầy vịt, đó là những đứa con của chúng ta, chúng ta phải chăn giữ chúng như thế nào để chúng có được một cuộc sống tốt đẹp? Hay chúng ta cho chúng ăn những gì để chúng có được một cuộc sống có ý nghĩa?
Bây giờ câu “Trời sinh voi sinh cỏ” không còn thích hợp nữa mà người ta đã nhận ra rằng: sinh con thì dễ, nuôi con thì khó, và dạy con nên người lại càng khó hơn.
Khi sinh con ra, chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn cho con mình được ăn no mặc ấm, ai trong chúng ta lại không thao thức và lo lắng khi con mình bệnh hoạn, rồi khi chúng tới tuổi khôn, ai lại không muốn cho con mình đi học. Chính vì thế, khi sinh ra một đứa con, tôi tin chắc rằng mỗi người đã ý thức việc nuôi dưỡng chúng về phần xác, nhưng còn việc giáo dục thì sao? Trong tinh thần đó, tôi xin nêu lên hai điều cần thiết trong việc giáo dục con cái, và đó như là hai món ăn không thể thiếu trong việc chăn giữ đoàn chiên mà Chúa trao phó cho các bậc cha mẹ.
Món ăn thứ nhất là món ăn nhân bản: là những bậc Cha Mẹ, chúng ta phải giáo dục cho con mình có một số nhân đức căn bản của đạo làm người như: công bằng, trung thực, lịch sự, biết tôn trọng người lớn…
Ca Dao nói rằng: “dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới ve”à. Vì tâm trí của những đứa trẻ giống như một tờ giấy trắng, nếu chúng ta vẽ vào đó hình ảnh nào thì hình ảnh đó sẽ tồn tại mãi trong cuộc đời của chúng, vì thế, nếu vẽ vào đó những đường thẳng, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những đường cong, nếu chúng ta không vẽ vào đó những hình ảnh tốt đẹp, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những hình ảnh xấu xa ghê sợ. Nếu không vẽ vào đó những đức tính của đạo làm người như lịch sự, công bằng, yêu thương, thành thực… thì xã hội và bạn bè sẽ vẽ vào đó những ích kỷ, những thói hư tật xấu. Vì thế, ngay lúc con mình còn nhỏ mà lưu ý dạy cho chúng những điều này, thì khi chúng lớn lên, chúng sẽ trở thành một con người thực sự, một con người biết yêu thương, biết tôn trọng người khác.
Nhưng làm sao giáo dục con mình có những đức tính nhân bản này, trong khi chúng ta lại không có, làm sao dạy chúng yêu thương người khác khi cha mẹ cứ cự cãi nhau hoài, làm sao dạy chúng trung thực khi cha mẹ lại là kẻ gian lận, làm sao dạy chúng đừng chơi cờ bạc khi cha mẹ lại cờ bạc… cho nên việc giáo dục con mình, đòi hỏi cha mẹ phải có một cuộc sống tốt để làm gương cho chúng.
Và món ăn thứ hai là món ăn đức tin: Khi nhìn thấy những cây kiểng với đủ dáng đủ kiểu, có cây cong bên này, có cây quẹo bên kia rất đẹp. Những cây đó không phải tự nhiên được như vậy, nó phải được cắt tỉa và uốn ngay lúc còn nhỏ. Khi mới đâm tược thì phải lấy dây chì uốn những tược đó theo những kiễu mà mình muốn, cho tới khi cái tược đó già đi thì mới mở dây chì ra, và lúc đó cái cây sẽ giữ nguyên cái dáng kiễu mà mình uốn nó.
Cũng vậy, khi sinh con ra, chúng ta phải định dạng cho chúng một cái dáng về đức tin, nghĩa là cha mẹ phải quyết định cho chúng ngã về bên nào, ngã về đức tin công giáo hay ngã theo chủ nghĩa vô thần, ngã theo đạo công giáo hay những đạo khác. Là những người cha người mẹ công giáo, chúng ta phải cho con mình ngã về đức tin công giáo, chứ không thể ngã theo chủ nghĩa vô thần hay một niềm tin nào khác được. Chính vì thế, khi sinh con ra, cha mẹ phải liệu làm sao cho con mình được rửa tội gia nhập vào đạo công giáo, để chúng có được một đức tin công giáo càng sớm càng tốt.
Như vậy, mỗi người chúng ta chính là người mục tử có bổn phận lo cho đoàn chiên là con cái mình. Có muốn cho những đứa con của mình trở thành những người tốt hay không? Chúng ta là những bậc cha mẹ hãy nhớ lại những lời hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đứng trước mặt Chúa và hội thánh, chúng ta đã hứa, là sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và hội thánh, nhưng chúng ta có thực hiện lời hứa đó không? Thực hiện tới mức độ nào?
Ước gì tất cả chúng ta là những bậc làm cha mẹ, chúng ta biết ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình đối với con cái, để từ đó giáo dục con em mình trở nên một người tốt và trở nên một kitô hữu tốt, nhờ đó, chúng được hạnh phúc ngay ở đời này và ngày sau được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Amen.
60. Chúa Giêsu – Vị Mục Tử Nhân Lành
(Suy niệm của Antôn Lương Văn Liêm)
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27)
Nhận được tin báo Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị và dân chúng trong vùng, người chỉ huy đội vệ binh tức tốc triệu tập thuộc cấp chuẩn bị nghênh đón. Một trong những việc chuẩn bị là dọn đường và mở đường.
Thật không may cho đội vệ binh, khi xe của Thống soái gần tới, bỗng dưng một đàn cừu (chiên) độ khoảng vài trăm con đổ xô lên đường. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu (chiên) chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:
– Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu (chiên) rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!
Xe của Thống soái ngày càng tiến gần, người chỉ huy đội vệ binh càng hối thúc thuộc cấp của mình, nhưng dường như đàn cừu không màng chi tới những lo lắng của người chỉ huy và đội vệ binh, chúng vẫn nhởn nhơ vui đùa! Xe của Thống soái dừng lại trước đàn cừu. Người đội trưởng đội vệ binh lúng túng chưa biết xử sự ra sao.
Bỗng từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng cất lên. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu (chiên) hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Đội trưởng đội vệ binh và thuộc cấp thở phào nhẹ nhõm, họ ngỡ ngàng, thán phục người mục đồng. Vị Thống soái mỉm cười và đoàn xe của ông ta từ từ tiến.
Qua câu chuyện trên, khi người mục đồng cất tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên về quanh mình đã làm cho những người trong đội vệ binh thán phục và ngỡ ngàng. Có thể nói, cho dẫu người mục đồng ấy có tài quy tụ đàn chiên bằng ngôn ngữ của sáo, nhưng chắc chắn một điều, người mục đống không thể nào giúp cho đàn chiên thoát khỏi cái chết bởi cái giới hạn của chúng, hoặc bảo vệ đàn chiên an toàn gặp phải hổ dữ hay kẻ trộm mạnh sức hơn mình. Giờ đây dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần ta chiêm ngắ, và noi gương Người Mục Đồng là chính Đức Giêsu Kitô Phục Sinh qua Kinh Thánh.
Như ta đã biết, chiên và nghề chăn chiên là hình ảnh thực tế và gần gũi đối với người Do Thái. Vào thời Cựu Ước, chiên là con vật được dùng vào nghi lễ tạ ơn, hiến tế dâng lên cho Đức Chúa, chiên cũng là thú nuôi đem lại lợi ích cho con người, lông chiên được dùng để kiến tạo nên những tấm khăn, cái áo… Người chăn chiên thường được gọi là mục đồng. Họ là những người chăm sóc đàn chiên, họ thường ở với chiên dẫn đàn chiên đến đồng cỏ, suối nước và bảo vệ đàn chiên khỏi những sói dữ và kẻ trộm. Nghề chăn chiên rất cực và đôi khi phải va chạm với những hiểm nguy để bảo vệ đàn chiên. Vì thế, Kinh Thánh dùng hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người nhân loại.
Trước Chúa Giêsu sinh ra trên dưới 800 năm, Ngôn sứ Êdêkien đã tiên báo: “Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình… Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng… Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt đàn chiên…” (Ed 34,11-23)
Trong thư gửi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giêsu, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu…” (Dt 13,20)
Trình thuật sách Khải Huyền giới thiệu Đức Giêsu là Con Chiên và cũng là thủ lãnh của đàn chiên (x. Kh 7,9-17). Tin Mừng theo Thánh sử Gioan đã trình thuật lời minh định của Đức Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong…” (Ga 10,27)
Vâng! Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành. Nhiệm vụ chính yếu Ngài: Chăn dắt, chăm sóc và vỗ về đàn chiên bằng lời nói, hành động; Ngài thân hành đi tìm những con chiên lạc, băng bó và chữa lành những con chiên bị ốm đau và thương tích. Không những thế, Ngài còn chấp nhận hy sinh, chấp nhận chết đi để cho đàn chiên được cứu và được sống muôn đời. Trước khi bước vào cuộc Tử Nạn Phục Sinh và về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến chính mình làm thần lương, thần dược nuôi sống và chữa lành đàn chiên, qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể vào chiều Thứ Năm trước Lễ Vượt Qua.
Hướng về Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, trước tiên, ta cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đón nhận ta vào đàn chiên của Ngài, ta cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài ban tặng cho ta Vị Mục Tử Nhân Lành luôn hướng dẫn, dưỡng nuôi ta trong từng phút giây của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài hằng bảo vệ ta thoát khỏi nanh vuốt của sói dữ tham mồi, dẫn ta tới đồng cỏ xanh non; đưa ta tới dòng suối mát trong. Không những thế, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu ấy còn chấp nhận sống khó nghèo, chấp gian khó, khổ đau và cả cái chết để chuộc những lỗi lầm của ta khi vì dại khờ mà ta rời bỏ đàn chiên đi tìm những đồng cỏ lạ, đồng cỏ đưa ta tới sự hủy diệt cả thân xác lẫn linh hồn. Qua cái chết, Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu đã Phục Sinh khải hoàn. Nhờ sự Phục sinh của Ngài mà ta được thông phần vào đời sống bất diệt của Thiên Chúa.
Trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta được Giáo Hội mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cầu nguyện cho hàng linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất thiết thực và rất có ý nghĩa. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang thiếu hụt trầm trọng ơn gọi trở thành linh mục, tu sĩ… nhiều nơi đang rất cần sự hiện diện của mục tử và tu sĩ để rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, những buôn sóc anh em dân tộc thiểu số… Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, ta hiệp lời cùng với Giáo Hội cầu xin Chúa ban tặng nhiều thợ gặt lành nghề như lời mời gọi của Đức Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, anh em hãy xin Cha sai thợ gặt ra gặt lúa đem về.” (Mt 9,37-38)
Hoà cùng với Giáo Hội trong ngày Lễ Chúa Chiên Lành, ta đồng cất cao lời cảm tạ Thiên Chúa, trong tâm tình tạ ơn ấy, ta cũng được mời gọi hướng lòng về các vị mục tử, tu sĩ nam nữ và những tâm hồn thiện nguyện với tấm lòng trân quý và cám ơn vì các ngài đã và đang chăm sóc ta trong đời sống đức tin, đời sống cầu nguyện như lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em.” (1 Tx 5,12)
Khi nói về hình ảnh và vai trò của người mục tử, ta thường liên tưởng và coi đó là nhiệm vụ của hàng linh mục xa hơn nữa là của tu sĩ nam nữ. Theo ngôn ngữ của Thánh Phêrô, vai trò, nhiệm vụ mục tử được Chúa ân ban cho hết tất cả những ai thuộc dân thánh như lời ngài viết cho các giáo đoàn thời Giáo Hội sơ khai: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi an hem ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sánh diệu huyền…” (1 Pr 2,9)
Có thể nói, qua Cuộc Tử nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, ta được thông phần vào đời sống, công việc của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Giêsu là Mục Tử, Ngài cũng trao ban cho ta chức vụ mục tử sau khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ta được dìm vào ân sủng của Chúa Thánh Thần. Qua ân sủng và chức vụ mục tử ấy, ta có bổn phận, trách nhiệm chăn dắt, chăm sóc và bảo vệ đàn chiên là gia đình, cộng đoàn… Không chỉ là chu toàn bổn phận, trách nhiệm của người mục tử, nhưng qua nhiệm vụ ta được mời gọi trở thành ánh sáng dọi chiếu Tin Mừng cho thế gian theo lệnh truyền Đức Giêsu: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 13,47)
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng Nhân Ái, nhưng cũng rất công minh. Vì thế, khi có ân thưởng thì cũng có luận phạt, còn đó lời cảnh báo, lời hạch tội của Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái trao ban cho ta chức vụ mục tử, qua miệng Ngôn sứ Êdêkien: “Đức Chúa là Chúa thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiến đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của ta tán loạn và biến thành mồi cho mọi dã thú. Vì thế hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên của Ta. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta…” (Ed 34,1-10)
Để giúp ta trở thành người mục tử như lòng Chúa ước mong, người mục tử luôn biết quảng đại, hy sinh và hiến thân mình cho đàn chiên, thiết tưởng, không có con đường nào khác ngoài con đường ta chạy đến với Đức Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao, vì Ngài đã phán: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến đây Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho các con. Các con hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11,28)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành! Con cảm tạ Chúa đã chăm sóc con và gia đình con, ngay cả khi con rời bỏ Chúa để đi tìm những đồng cỏ nơi thế gian, thế mà Chúa vẫn yêu thương đưa dẫn con trở về và trao ban cho con chức vụ mục tử.
Xin Chúa dạy và giúp con chu toàn bổn phận mục tử mà Chúa đã trao ban. Xin giúp đời con biến thành những tiếng sáo du dương, trầm bổng để quy tụ đàn chiên mà Chúa trao cho con là người dẫn dắt. Amen.
61. Sống tốt ơn gọi được lãnh nhận
Cùng với Giáo hội hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 4 Phục sinh của năm Phụng vụ 2010. Như chúng ta đã biết, vào mỗi Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hằng năm Giáo hội tôn vinh Chúa Giêsu với tên gọi: mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã tự xưng mình là mục tử nhân lành – mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10,27-28a).
Chúa Giêsu đến trần gian này để hoàn tất chương trình cứu độ con người. Ðó là ơn gọi đặc biệt mà Chúa Giêsu được đón nhận từ Thiên Chúa Cha. Và Người đã hoàn tất ơn gọi ấy thật tuyệt vời.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày mà cả Giáo hội cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ dám đáp lại ơn kêu gọi của Chúa để sống đời sống tu trì. Sống ơn gọi tu trì hầu tận hiến trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình.
Nói đến ơn gọi tu trì thì dường như ngày nay nhiều bạn trẻ Công giáo cảm thấy sợ. Có lẽ họ sợ là vì họ chưa dám sống tích cực ơn gọi chung. Ơn gọi chung ấy chính là ơn gọi làm người và ơn gọi làm người con Thiên Chúa. Khi ý thức để sống trọn vẹn được 2 ơn gọi căn bản này, các bạn trẻ sẽ dễ dàng đón nhận ơn gọi sống đời tu trì. Chính môi trường gia đình là những người đầu tiên gieo mầm sống ơn gọi này.
Ðời sống chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Ðây là chủ đề của Sứ điệp ơn gọi năm nay của Ðức Thánh Cha Bênêđictô. Trong sứ điệp này ngài đề cập đến ba việc cần làm để trở thành chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì.
Ðời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên. Ðó là một gia đình thường xuyên nhắc nhở nhau đi dâng Thánh lễ nhất là Thánh lễ Chúa nhật. Cũng vậy, trong gia đình ấy mỗi người nhắc nhở nhau đọc kinh hôm kinh mai chung.
Một đời sống tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa là khía cạnh thứ hai trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Với tất cả biến cố vui buồn trong cuộc sống luôn biết tìm ra và đón nhận thánh ý Thiên Chúa một cách vui vẻ.
Khía cạnh thứ ba không kém phần quan trọng là biết sống hiệp thông với mọi người. Tự bản chất con người được dựng nên để sống chung, sống cùng, sống với và sống cho người khác. Cho nên, người nào muốn trở thành người thật sự cần sống tốt những điều này.
Mặc dầu, trên đây là những điều căn bản trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì nhưng thiết nghĩ đây cũng là điều hết sức cần thiết cho mỗi người tín hữu. Bởi vì, cho dù có đi tu hay không mỗi người chúng ta đều được kêu mời sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa.
62. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời
“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.
Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi” (Mc 3,14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm 2,4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.
Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.
Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.
Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.
Dụng cụ ban ơn cứu độ
Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.
Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.
Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
63. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta – Lm. Thu Băng
Bên Ấn Độ, người ta bắt khỉ bằng cách làm một cái hộp gỗ, có một cái lỗ nhỏ vùa đủ để khỉ thọc tạy vào. Nhưng nếu nó nắm một hạt dẻ đựng trong hộp thì nó không thể lấy tay ra được. Do đó khỉ có thể chọn một trong hai việc: Buông hạt dẻ để có thể chạy thoát, hoặc nắm lấy hạt dẻ để bị bắt. Nhưng khỉ thường nắm chắc hạt dẻ, vì nó không thể hiểu được mánh lới người ta gài bẫy để bắt nó.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra một cuộc lựa chọn cho người Do Thái. Họ trách Chúa để họ nghi nan, để họ thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp nhưng dùng thí dụ: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta và chiên Ta là một”.
Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết rằng Đức Tin là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn. Đức Tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để mà bước theo. Chiên có đôi mắt nhìn kém, nhìn xa không rõ, nên nó phải đi theo nhau thành đàn và lắng nghe tiếng chủ chăn mà đi, không theo tiếng người lạ.
Ngày nay đức tin nơi con người bị giảm sút, sống trong một xã hội hưởng thụ vật chất, thích hào nhoáng, ưa an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa, cũng như con khỉ muốn thủ lợi, bám chặt lấy hạt dẻ mà không muốn buông ra để khỏi bị lụy vào thân. Cái mồi vinh hoa phú quý vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai (từ trẻ thơ cho tới người râu tóc bạc phơ), lao mình vào cái chết.
Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, đón mừng người biết nhắm mắt nghe theo tiếng Chúa, biết lựa chọn, biết sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô tử giá. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống hào nhoáng, tham vọng, bỏ đi lối sống ngang trái, vụng trộm, lừa lọc… và nhiều lối sống khác chúng ta đang có thể mắc phải. Bỏ đi được chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm lại được sự sống đời đời và bảo đảm không mất.
Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã dựng nên chúng con và ban cho ơn sự sống, ơn đức tin, để chúng con tìm hiểu và suy tư về ơn Chúa mà suy phục, mà nghe theo tiếng Chúa. Vậy xin Cha giúp chúng con biết lắng nghe tiếng Ngài. Xin giúp chúng con biết chu toàn kế hoạch mà Cha đã định, để chúng con được sống hạnh phúc bên Cha mãi mãi.
64. Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công giáo từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu.
Hình ảnh này là kim chỉ nam cùng là mẫu gương cho đời sống Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian từ xưa nay.
Hình ảnh này không chỉ là một hình ảnh đẹp thơ mộng, đầy văn chương thi vị, nhưng là hình ảnh sống động chứa chan tình yêu thương trong tương quan liên đới người chăn chiên lo cho đàn chiên.
Đức giáo hoàng Benedictô 16. trong tác phẩm “Giêsu thành Nadarét”, mà ngài vừa mới viết xong, và cho xuất bản dịp mừng sinh nhật thứ tám mươi ngày 16.04.2007 vừa qua, đã diễn tả hình ảnh này vừa theo lối văn chương suy tư thần học, vừa tâm tình đức tin và vừa theo phương pháp phân tích khoa học.
“Chúng ta trở lại chương 10. Phúc âm Thánh Gioan nói về người Chăn chiên: “Thầy là người chăn chiên nhân lành”. Bài tường thuật lịch sử này vẽ lên rõ nét hình ảnh người chăn chiên, cùng ẩn chứa bốn động lực căn bản.
– Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành hứa ban: sự sống đầy đủ dồi dào. Sự sống đầy đủ dồi dào như mỗi người mong đợi. Nhưng điều đó là gì vậy? Đâu là nội dung của sự sống đó? Nơi nào ta có thể tìm kiếm được sự sống đó? Khi nào và như thế nào chúng ta có “sự sống đầy đủ dồi dào”? Nếu chúng ta cứ sống như người con hoang đàng, chúng ta có bỏ lỡ món qùa tặng của Thiên Chúa không? Nếu chúng ta sống như kẻ ăn trộm, như kẻ cướp – tất cả chỉ cho mình, thì sao?
Chúa Giêsu hứa, Ngài sẽ chỉ dẫn lối cho các con chiên tìm tới “đồng cỏ”, nơi đó có thức ăn, có nguồn nước cho đời sống. Thánh Vịnh 23 nói với chúng ta: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành…Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc…
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,” (Tv 23, 2.5f)
Tiên tri Edêkien cũng diễn tả: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en” (Ez 34,14)
Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Chúng ta biết, những con chiên sống bằng gì; con người sống bằng gì?
Các Tổ phụ cha ông ngày xưa đã dùng hình ảnh trong vùng cao nguyên núi đồi bên đất nước Israel có những cánh đồng cỏ ở nơi cao, nơi đó có bóng râm che rợp, có nước, làm hình ảnh của Lời Thiên Chúa cho sự sống trong Kinh Thánh. Và nếu hình ảnh đó không hợp với ý nghĩa lịch sử, như trong bài diễn tả, các ngài cũng đã nhìn đúng, nhất là Chúa Giêsu đã tự hiểu về mình đúng như thế. Con người sống bằng sự chân thật, bằng được yêu thương, bằng được yêu thương trong sự chân thật. Con người cần một Thiên Chúa gần gũi bên cạnh họ, một Thiên Chúa cho ý nghĩa đời sống, một Thiên Chúa hướng dẫn đường đời sống.
Tất nhiên, con người cần cơm bánh, cần của ăn thức uống cho thân xác. Nhưng họ cần điều gì thâm sâu hơn, nhất là Lời, tình yêu và chính Thiên Chúa. Ai trao cho người nào điều đó, người đó trao tặng “sự sống dồi dào”. Như thế mang đến sức mạnh, qua đó người làm cho đời sống trên mặt đất đầy đủ ý nghĩa.
– Động lực thứ hai của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành thể hiện qua biến chuyển mới: Người chăn chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Thánh gía chiếm trung tâm điểm của đời sống người chăn chiên nhân lành không phải như hành động của sức mạnh ép buộc, nhưng là sự tự hy sinh hiến thân: “Ta hiến mạng sống mình để lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính ta tự ý hy sinh mạng sống.” (10,17)
Trong Bí tich Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến đổi hành động sức mạnh ép buộc bị đóng đinh trên thánh gía thành cử chỉ tự hiến thân hy sinh cho người khác.
– Động lực thứ ba của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự biết nhau giữa người chăn chiên và đàn chiên: “…người chăn chiên gọi các con chiên của mình, anh ta biết tên từng con chiên và dẫn chúng ra ngoài. Các con chiên theo anh ta, chúng quen biết tiếng của người chăn dắt chúng. (10,3).
Người chăn chiên biết các chiên mình thuộc về mình, và các con chiên biết mình thuộc về người chăn chiên. Người chăn chiên sở hữu các con chiên không phải như bất cứ đồ vật cần dùng nào. Chúng thuộc về anh ta vì anh ta biết chúng. Điều này biểu hiện mối liên quan mật thiết sâu thẳm hơn là sở hữu một món đồ vật.
Con cái không là vật sở hữu của cha mẹ; vợ chồng không là sở hữu của một người khác. Nhưng họ thuộc về nhau theo chiều tâm linh sâu thẳm hơn là sở hữu làm chủ một khúc gỗ, một miếng đất. Con cái thuộc về cha mẹ, nhưng dẫu vậy chúng vẫn là thụ tạo tự do của Thiên Chúa tạo dựng. Đời sống mỗi người con có một sứ mệnh riêng, có một điều mới riêng, có một bản vị riêng trước mặt Thiên Chúa.
Con cái cha mẹ thuộc về nhau không phải như vật sở hữu, nhưng có trách nhiệm với nhau. Họ thuộc về nhau trong tự do và trong tình yêu thương cho nhau.
– Động lực thứ tư của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự hiệp nhất nên một “Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này. Ta cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử. (10,16).
Chúa Giêsu, sau khi sống lại, sai các Tông đồ đi rao giảng không chỉ nghĩ đến những con chiên lạc đàn ở Israel, nhưng đến tất cả mọi người: “Anh em là nhân chứng cho Thầy ở Giêrusalem, toàn miền Giudea, Samaria và tới tận cùng biên cương trái đất” (Cv 1,8)
Lý do sâu thẳm của sứ mạng sai đi rao giảng tập trung ở điểm: Chỉ có một đàn chiên.. Ngôi Lời (Logos) đã thành người qua Chúa Giêsu, là người chăn chiên của hết mọi người. Tất cả mọi người được tạo thành do Lời của Thiên Chúa. Cho dù họ có tản mát khắp nơi, nhưng vẫn là một phát xuất từ nơi Thiên Chúa và rồi lại quy tụ về nơi Ngài. Trong Ngôi Lời (Logos) loài người có thể quy tụ trở nên một, đấng là người chăn chiên đích thực, đấng đã làm người hy sinh hiến mạng sống, và đã trao tặng sự sống dồi dào.
Hình ảnh người chăn chiên từ thời xa xưa, vào thế kỷ thứ 3 đã ăn sâu đậm nét vào đời sống Kitô giáo. Hình ảnh này thân thương quen thuộc trong đời sống ở thành thị lẫn thôn quê. Kitô giáo đã tìm thấy hình ảnh này nơi Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử. Nơi Ngài tôi không còn thiếu gì. Người dẫn tôi ra đồng cỏ xanh tươi. Người dẫn tôi đi qua thung lũng tối tăm hiểm nguy…”.
Nơi Chúa Giêsu Kitô họ nhận ra hình ảnh người chăn chiên nhân lành, người trong đời sống đã trải qua những thung lũng tối tăm. Người chăn chiên đó đã trải qua đêm đen tối sự chết, người chăn chiên biết đường đi qua đêm tối sự chết, không bỏ ai một mình đơn cô, nhưng dẫn đưa đến đồng cỏ sự sống xanh tươi, nơi có ánh sáng bình an..
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng không quên dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, anh ta vác bế nó trên vai đưa trở về nhà. Với các Giáo phụ hai hình ảnh này đan bện vào nhau: người chăn chiên lên đường đi tìm con chiên lạc đàn là chính Ngôi Lời, và con chiên lạc bồng bế trên vai đưa về nhà là loài người, mà Ngài đón nhận.
Qua nhập thể làm người và qua cái chết trên thánh gía, Chúa Giêsu đã bồng ẵm con chiên lạc – là loài người, trở về nhà. Ngôi Lời đã thành người. Ngài là người chăn chiên và bồng bế con chiên, cùng là người theo sát cuộc sống con người trần gian qua mạo gai và sa mạc đời sống. Nhờ được Ngài chấp nhận bồng ẵm chúng ta trở về nhà. Ngài đã hy sinh mạng sống cho chúng ta. Ngài chính là sự sống.” (Joseph Ratzinger- Benedickt XVI., Jesus von Nazareth, I., 2007 Verlag Herder, Freiburg im Bresgau, 8. Kapitel – Der Hirte, S. 317 – 331)
65. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ với các em thôi. Và để các em nhớ và thuộc câu này, thầy mời gọi các em cùng đọc với thầy: “Con chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, thánh Gioan có nhắc đến tên một con vật, con đó là con gì? TL: Chiên. Các em biết, hôm nay là Chúa Nhật IV Phục sinh, còn có tên gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa dùng hình ảnh quen thuộc của người Do Thái là con chiên và người chăn chiên để nói lên Chúa luôn yêu thương và quan tâm chăm sóc các em trong cuộc sống hằng ngày. Chúa thì thương lo cho mình, còn mình là thiếu nhi phải đáp lại thế nào đây?
Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, Chúa dạy mình đáp lại bằng cách nghe và theo Chúa, theo thầy, cụ thể qua việc đến nhà thờ học giáo lý mỗi Chúa Nhật.
Ở đây, các em học giáo lý lúc mấy giờ, thứ mấy? Học giáo lý chính là theo Chúa và nghe Chúa. Thế nhưng, đang lúc các em học giáo lý, có những bạn khác không nghe theo tiếng gọi của Chúa mà theo những tiếng khác để đi chơi game, đi đá banh, đi đám cưới với bố mẹ, đi siêu thị với người thân… Còn cũng có những em tốt hơn chút, cũng đi học giáo lý, nhưng lúc dì hay giáo lý viên cắt nghĩa giáo lý, em đánh cờ carô với bạn, em thọt léc bạn bên cạnh, em ngồi ngủ, hoặc lo ra nghĩ chuyện đâu đâu đó. Đó là những hành động cho thấy em hỏng muốn nghe tiếng Chúa.
Các em thân mến! Lý do các em không muốn đi học giáo lý và chơi giỡn trong giờ giáo lý vì mình chưa thấy sự quan trọng của việc học giáo lý. Thầy nói cho em biết học giáo lý quan trọng thế nào qua bài cám ơn của một em rước lễ lần đầu ở họ đạo thầy: “Sau khi rước lễ lần đầu xong, một em thiếu nhi đứng giữa nhà thờ đọc bài cám ơn, rất đông người trong nhà thờ đang lắng nghe, sau khi cám ơn Cha sở, các giáo lý viên, em bắt đầu cám ơn cha mẹ em: Kính thưa cha mẹ, cha mẹ thương con nhiều, con không biết cha thương con đến mức nào nhưng con hiểu được tình thương bao la của mẹ qua những lần trời mưa to,mẹ vẫn mặc áo mưa, chạy xe đạp chở con đến nhà thờ để học giáo lý. Trong những bước đi đầu đời của con đến với Chúa, mẹ đã ân cần quan tâm đưa đón, thì con tin rằng mẹ sẽ là chỗ dựa đức tin vững chắc cho cuộc đời của con sau này”. Và khi em đọc đến đó, người ta thấy nhiều giọt nước mắt đang lăn dài trên má của các bà mẹ tham dự lễ ngày hôm đó.
Các em thiếu nhi thân mến, không cần nói nhiều, trời mưa mà mẹ vẫn chở em đi học giáo lý cho thấy việc học giáo lý cần hơn, quan trọng hơn việc chơi game, đi đá banh, đi siêu thị, đi học thêm. Vì học giáo lý làø nghe tiếng Chúa, là đi theo Chúa mà.
Kính thưa OBACE! Trời mưa, một bà mẹ nhà quê chở con đi học giáo lý, OBACE thấy có dại dột quá không? Dại hay không thì chưa biết nhưng bà hiểu được đúng đắn rằng dù con là do mình sinh ra nhưng thực sự nó là con cái Thiên Chúa, nó phải cần được học giáo lý để biết cha nó là ai và học giáo lý để biết sống làm sao mai này về hưởng phước với cha nó. Đến giờ con học giáo lý, nó đòi đi học thêm, mình là cha là mẹ chiều nó, sợ nó học thua các bạn. Sau này, nó có thể thành tài đó, nhưng nó không biết cách làm con Chúa, không biết cách sống đạo cho tử tế, mất phần rỗi linh hồn, trách nhiệm nó, bậc làm cha làm mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa. Còn ngược lại, nếu mình biết quan tâm cho con cái đi học giáo lý đàng hoàng, nó học biết mến Chúa yêu người, nó biết hiếu thảo với cha mẹ, người được hưởng nhờ đầu tiên là OBACE. Do vậy, để đáp lại Lời Chúa hôm nay giúp trẻ nghe và theo Chúa, Xin OBACE dù bận việc đến đâu cũng phải cố gắng sắp xếp đưa con mình đến nhà thờ học giáo lý. Rồi quan tâm xem nó có đi học hay trốn học đi chơi. Nó đi học về, hỏi xem nó học được những gì. Dặn nó học bài, kêu nó trả bài cho mình nghe. OBACE tưởng đâu chuyện mình lo cho con đầy đủ cái ăn, cái mặc, chuyện học ở trường là làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, chưa đâu, đó chỉ là làm cái chuyện phụ. Lo cho con cái học giáo lý biết Chúa, để nó sau này sống tốt mới là bổn phận chính yếu Chúa muốn các bậc cha mẹ cộng tác với Ngài.
Kính thưa OBACE! Hôm nay là ngày Giáo Hội dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. OBACE mong ước cho con mình trở thành linh mục, tu sĩ thì xin từ bây giờ, lúc con còn nhỏ, hãy cầu nguyện cho nó. Và hãy cố ý dâng cho Chúa mơ ước này ngay lúc OBACE chở nó đi học giáo lý đó. Đang lúc chúng ta chở con đi học giáo lý cũng là lúc chúng ta đang ươm mầm ơn gọi cho con đó thưa OBACE. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam