Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1378829
CHÚA ĂN CHAY VÀ BỊ CÁM DỖ
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi: “Thiên Chúa ra sao?”. Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi “quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa” như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các dân, các nước công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?”.
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là một văn bản, mà là một bản vị, một nhân vật sống động có các liên hệ thân tình với loài người. Đó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.
Sách Đệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ kia, giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức được rằng: Họ là một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên họ trước hết là Đấng đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì được nhắc đến trong kinh tin kính trên đây của sách “Đệ Nhị Luật” đều là kết quả các kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền tảng niềm tin của họ.
Phụng vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ “tưởng nhớ”. Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.
Đây là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất hứa, nơi họ đang sinh sống. Đối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Đấng trao ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Đấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của Đấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi ông là chính họ.
Việc cử hành phụng vụ như thế trở thành thời điểm, trong đó các hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự lớp lang và giải thích như là các hành động cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.
Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:
- Vai trò của Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bởi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đối với thánh sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước, mà là một bản vị, là Đấng hướng dẫn cuộc đời Chúa Giêsu và hoạt động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách nơi sa mạc. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường khổ giá mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra, để đi theo một con đường khác hấp dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng hơn.
Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi thứ sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ. Đủ mọi thứ cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Đối với thánh Luca thì chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.
- Đặc điểm thứ hai trong trình thuật Phúc Âm của thánh Luca là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một cuộc lữ hành tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công trình cứu chuộc trần gian qua cuộc tử nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Do đó, thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không có chương ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.
- Sa mạc: trong sa mạc của cuộc Xuất Hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã thua trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Đấng giải phóng minh. “Lẩm bẩm” là từ Kinh Thánh Cựu Ước dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài. Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải hành động thế nào để giải phóng mình. Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không nhượng bộ mà nghe theo lời ma quỉ cám dỗ, hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha, mà không đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ cụ thể của tình yêu thương quan phòng ấp ủ, như diễn tả bằng lương thực, của cải giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.
Trong thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng: “Mọi người đều có thể đạt được ơn cứu độ”. Điều kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.
Một khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là gương sống cụ thể của chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Đời là một cuộc ra đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Khi tuổi về già đến, con người lại thấy mình đứng bên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi vĩnh viễn, dứt khoát. Cuộc đời không bao giờ là một dòng sông êm ả, chúng ta không ngừng phải trải qua không biết bao nhiêu đổi thay. Lần vào cuộc ra đi không ngừng ấy, cuộc sống đức tin của chúng ta cũng được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Khởi đầu cuộc sống đức tin cũng là một sự chào đời để lớn lên và ra đi không ngừng. Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn cuộc lữ hành của chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi.
Ở khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham, đó là cuộc ra đi mẫu mực. Abraham đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Nhưng điển hình nhất trong các cuộc ra đi của lịch sử cứu độ chính là cuộc ra đi của dân Israel… Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ một cuộc lữ hành nào cũng đều phải có.
Trong ký ức tập thể của người Do Thái, 40 năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua, để sống tốt đẹp hơn, để sống tiến bộ hơn, để sống xứng đáng với nhân phẩm của con người hơn. Kinh nghiệm 40 ngày sa mạc ấy, Chúa Giêsu cũng muốn trải qua trong cuộc lữ hành trần gian của Ngài. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến cái chết và nhờ đó, thực hiện được công cuộc cứu rỗi nhân loại. Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách ấy, Chúa Giêsu cũng muốn sống lại kinh nghiệm của 40 năm sa mạc. Ngài đã chịu thử thách. Nhưng nếu dân Do Thái đã bắt đầu gục ngã một cách thảm thương, thì Chúa Giêsu lại chiến thắng. Chiến thắng một cách vinh quang. Tựu trung, ba cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu đựng đều quy về một mối đó là quyền lực và danh vọng. Đối lại với con đường dễ dãi mà ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của lòng tin tưởng phó thác trên sự tự phụ mù quáng. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của tự do trên những quyền lực tăm tối trong tâm hồn con người.
Nếu cuộc hành trình của dân Do Thái là một hành trình tiến về vùng đất tự do, thì cuộc hành trình của Chúa Giêsu là cuộc hành trình tiến về tự do của tâm hồn. Nếu người Do Thái qua cuộc hành trình đã trở thành một dân tộc tự do, thì Chúa Giêsu qua cuộc hành trình để trở thành mẫu mực cho con người tự do, và qua cuộc thử thách trong sa mạc Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cuộc hành trình tiến về tự do nào cũng đòi hỏi hy sinh, chiến thắng và thanh luyện.
Thiết lập Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu. Cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi xuyên qua những vùng sa mạc khô cằn, nóng cháy. Thử thách, gian lao là chuyện không thể thiếu được trong cuộc lữ hành. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta vượt qua sa mạc của những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ khiến chúng ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi, dứt khoát với nếp sống cũ đầy dẫy những thất vọng buông xuôi. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Chúng ta không chiến đấu và hành trình một cách lẻ loi, Chúa Giêsu đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta không chiến đấu bằng sức mạnh và khí giới riêng của chúng ta, chúng ta có Chúa làm sức mạnh cho chúng ta.
Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy trong thánh lễ hôm nay, trở thành sức mạnh và can đảm để giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành.
Danh – Lợi – Thú, đó là ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống con người. Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Kẻ được người thua cũng đều có thể phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng những bất hạnh mà mình đang phải gánh chịu đều vì tiền, vì lạc thú, vì quyền lực. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và vì quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ..Anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền mà đánh mất tính người. Nhưng có lễ cái cám dỗ nguy hiểm nhất của đời người chính là đồng tiền. Vì nhiều người cho rằng: “có tiền là có tất cả”.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa vợ chồng cũng không bằng ma lực đồng tiền. Vì “Còn tiền còn bạc còn đệ tử – Hết tiền hết gạo hết ông tôi”. Có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ, vì thế dân gian mới có câu: “Ông tiền, ông Phật, ông Tiên – ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn”.
Ngày xưa, có người nước Tề thích vàng đến nỗi mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chay đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
+ Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
+ Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy ai nữa. Trước mắt tôi chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ sẵn sàng mạo hiểm lao vào, bất chấp đó là hiểm nguy, là lửa cháy có thể tiêu huỷ cả tính mạng. Vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, tham nhũng miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Mattheu miêu tả đến những cám dỗ mà ma quỷ đã bày ra cho Chúa Gie6su. Nó cám dỗ Chúa Giêsu vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biết thành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng giá hơn con người, đến nỗi phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.
Những cám dỗ mà ma quỷ tuy thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Thực vậy, dưới sức nặng và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng ta đều phải trải qua kinh nghiệm của thánh Phaolo: “việc thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Điều ác tôi không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn vui của cuộc sống, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú và làm nô lệ cho những đam mê thấp hèn. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam