Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 38
Tổng truy cập: 1379564
CHÚA CẦN CHÚNG TA
Chúa cần chúng ta.
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng cha xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các bạn”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo.
38. Siêu thoát bản ngã
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: "Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục "Lon Tướng" và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vệ đi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che".
I. ƠN TUYỂN CHỌN CAO QUÝ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng... để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác.
Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: "Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương" (Eph 1:4).
Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: "Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc" (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: "Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer. 31:3).
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA ĐÁP LẠI
Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa.
Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết".
Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó.
Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa.
Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây:
Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: "Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo... Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích... Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!"
Kết Luận
Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên", tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự.
Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.
39. Người bắt đầu sai đi
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
40. Ra đi – Lm. Nguyễn Hữu An.
“Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô. Mình phụ trách phần thuyết trình. Lần đầu tiên trong đời, mình đăng đàn trước một cử toạ có nhiều người tai to mặt lớn như thế. Mình bắt đầu run. Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.
Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi đễ thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào. Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng. Thánh Phaolô cũng thế. Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion: “Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân”. Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội, nhưng đi bằng chính thân xác của mình, để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất. Mặt đối mặt, lời trao lời mới nảy ra tình yêu. Truyền giáo mà không yêu thương thì không thể là truyền giáo được. Muốn thế thì phải đi, phải đến...
Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn, nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ. Vừa rời giảng đài được chừng ba bước thì chạm trán với thầy Hiến Minh. Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn: “Cậu nói được đấy”.
Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của Thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sẵn có: “Người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào”
(Lm Piô Phúc Hậu, Nhật ký truyền giáo trang 177).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Đức Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23) hay ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Gio-đan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng, đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, quả là suốt đời Đức Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Đức Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Ghetsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).
Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20)
Đức Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai. Các Tông Đồ là những người được sai đi. Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép, không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
Đức Giêsu cũng không giấu diếm họ. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ tôi trồng, Apollô tưới Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ... và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
41. Suy Niệm của Lm. Phạm Bá Tước.
Việc truyền giáo trong đạo của chúng ta ở vào thời đại nào cũng thế, luôn luôn bị vấn đề kinh tế, tài chánh làm cản trở bước tiến. Các nhà truyền giáo ngày nay muốn phát động một chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh, thì cũng đành bó tay; bởi thế trong dân mới có câu: “Có thực mới vực được đạo” quả là chí lý lắm, từ trung ương Giáo-hội cho chí các Giáo-phận, rồi giáo hạt, giáo xứ, đều phải có sẵn một qũi dành riêng cho việc truyền giáo thì công việc mới trôi chẩy. Thế mà các nhà truyền giáo tiên khởi của chúng ta, là các Tông đồ, được Chúa Giêsu, là bậc Thầy lỗi lạc của mọi nhà truyền giáo, trực tiếp sai đi xem ra lại coi nhẹ vấn đề tài chánh ấy. Chúa nói: “Khi đi anh em không được mang theo lương thực, tiền bạc, ngoại trừ một đôi dép mang dưới chân và một cây gậy câm nơi tay để chống thôi, ăn mặc đơn sơ gọn gàng, đừng mặc hai áo.”
Trích đoạn Tin-mừng theo thánh Marcô, đọc trong thánh lễ hôm nay, cho chúng ta thấy người chiến sĩ Phúc âm mẫu được Chúa Giêsu đích thân sai đi, chỉ có hai bàn tay trắng, mọi nhu cầu thiết yếu cho sự sống thân xác, cụ thể như lương thực, tiền bạc đều không được mang theo. Điều đó khiến nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Chúa Giêsu là Thiên-Chúa mà lại hành sử một cách khờ khạo và vô lý như thế? hay Chúa chỉ sai đi trong chốc lát thôi, đói bụng thì về nhà ăn. Người chiến sĩ ra mặt trận mà hễ đói bụng thì phải trở về hậu phương để ăn, như thế làm sao có thể chiến đấu thành công được? Chúng ta phải hiểu Lời Chúa sao đây? có nên làm theo lời Chúa dậy để nắm chắc lấy cái thất bại không? Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ để tìm hiểu ý Chúa.
Tiên vàn, chúng ta phải tự giác lãnh lấy trách nhiệm loan báo Tin-mừng mà Chúa trao cho chúng ta trước đã, đừng thoái thác cho rằng việc truyền giáo là việc hay là bổn phận dành riêng cho các vị Thừa sai, cho hàng Giáo sĩ, hay Tu sĩ, chứ Chúa không trao cho người giáo dân chúng tôi. Nếu chưa xác định được lệnh truyền của Chúa xưa sai các môn đệ đi cũng là lệnh truyền sai hết mọi Kitô hữu cho đến từng người một trong chúng ta, thì chẳng còn gì để nói cả, chỉ vì một lý do rất đơn giản là hết thảy những ai đã chịu phép rửa tội đều mang danh là Kitô hữu, nên chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa, hơn nữa chẳng ai trong chúng ta muốn chối bỏ danh hiệu này. Thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, bao giờ cũng được kết thúc bằng một lệnh truyền sai đi. Giáo-hội thay mặt Chúa nói với chúng ta: “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” Cộng đoàn hoan hỷ đáp lại: “Tạ ơn Chúa” Lời cầu chúc ấy là một lệnh sai đi loan báo Tin-mừng, hàm ý nhắc nhở người tín hữu về bao nhiêu ơn lành Chúa thông ban cho chúng ta trong Thánh lễ, đặc biệt những ơn chúng ta lãnh được nơi bàn tiệc Mình và Máu Chúa, không phải để chúng ta mang về cất giấu đi cho mình. Bao nhiêu tâm hồn đang đói khát ơn Chúa, không được diễm phúc ăn uống no say Mình và Máu Chúa như chúng ta, chúng ta có bổn phận phải đem chia sẻ ơn Chúa cho họ.
Chỉ cần nói tới đây thôi là ai cũng hiểu được, tại sao hôm nay Chúa sai tôi đi loan báo Tin-mừng lại không muốn cho tôi bận tâm đến vấn đề kinh tế, tài chánh và ẩm thực, tất nhiên Ngài không sai tôi đi chỉ trong chốc lát, công tác phải được thực hiện liên tục và kéo dài suốt cả đời tôi. Đã có ai trước tôi thực hiện nổi Lời Chúa dạy chưa? Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu chỉ ở trong 4 bức tường của nhà Kín, không tiếp xúc với ngoài xã hội, nhưng chị nhận trách nhiệm được sai đi, chị đã đem được bao nhiệu tâm hồn trở lại, mà Giáo-hội đặt chị thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng thánh Phanxicô Xavier, người chiến sĩ Phúc âm lỗi lạc đã từng đặt chân lên mọi nẻo đường của cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn. Thánh nữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền bá Phúc âm chỉ bằng lời cầu nguyện và sư hy sinh hãm mình mà thôi.
Nếu người Kitô hữu chúng ta phải sống giữa thế gian xô bồ, đầy những bon chen, cạnh tranh, không có môi trường thuận lợi để cầu nguyện và hy sinh hãm mình như Têrêxa, thì chúng ta rao giảng danh Chúa bằng gương sáng đời sống và cách ăn ở của chúng ta, như lời Chúa dậy: “Anh em hãy sống làm sao để mọi người nhìn thấy cách anh em ăn ở mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời”, những cách thế loan báo Tin-mừng như vậy không đòi hỏi chúng ta phải mang theo tiền bạc, luơng thực hay phải ăn mặc lịch sự (hai áo) làm gì. Một người sống bần hàn giữa chợ đời, mà sáng chói những đức tính khiêm tốn, thật thà, đạo đức thì có sức lôi cuốn được người ta trở về với Chúa gấp hơn cả ngàn lần những bài giảng hùng hồn mà rỗng tuếch.
Nói như thế không có nghĩa là, cách thế Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin-mừng xưa, hiểu theo nghĩa hẹp, các nhà truyền giáo của chúng ta ngày nay chẳng còn ai đem ra áp dụng nữa đâu. Tất cả những ai đã đọc cuốn NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO của Linh mục Nguyễn phúc Hậu nói về những sinh hoạt truyền giáo của người chiến sĩ Phúc âm ở vùng Năm-căn, Cà mau, một cánh đồng truyền giáo Mầu mỡ, phì nhiêu ngay trên đất nước Việt-nam thân yêu của chúng ta, đều phải công nhận rằng, Lời Chúa hôm nay vẫn còn được đem ra áp dụng từng nét. Sống trong thời kỳ kinh tế thị trường như ở xã hội Việt-nam chúng ta đang sống hiện nay, đối với những người chiến sĩ Phúc âm vùng Năm căn, Cà mau, Chúa vẫn chỉ thị: “Anh em không được mang gì đi đường, trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc, được đi dép, nhưng không mặc hai áo” còn họ thì không có gậy cầm tay, có khi dép cũng chẳng có để đi nữa, thì còn nói chi tới luơng thực, tiền bạc có đâu mà mang theo, nhưng lời Chúa vẫn được rao giảng rất là kỳ diệu, những người chiến sĩ ấy sống giữa đám dân nghèo, nhà ở cũng như nhà thờ làm toàn bằng lá dừa nứơc lụp xụp, đến nỗi nhìn nhà thờ, người ta có cảm tương đó là một Cái Chuồng thờ thì đúng hơn.
Trong khi đó Chúa cho tôi được sống trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về mọi mặt, hằng ngày tôi đã làm được những gì để hoàn thành nhiệm vụ của người được Chúa sai đi? đời sống của tôi có vì Phúc âm mà cải thiện được chút nào không? tôi có dùng đức tin như cây gậy Chúa trang bị cho để đi cho vững khỏi vấp ngã trước bao nhiêu thử thách của cuộc đời không? tôi có tận dụng được mọi ơn Chúa ban như cơm ăn, áo mặc, nhà ở cùng mọi tiện nghi của cuộc sống, như đôi dép giúp cho đôi chân tôi chống lại mọi chông gai trên đường đi, để tôi an tâm lo việc loan báo Tin-mừng không? hay ngược lại, tôi lại lợi dụng những ơn lành Chúa ban, làm gương xấu cho những người chung quanh, khiến cho người ta tìm đường xa lánh, không muốn trở về với Hội-thánh của Người.
Ngày nay nói tới Gandhi thì ai cũng biết ông là một vị Cứu tinh của dân tộc Ấn độ. Mặc dù là người theo Ấn giáo, nhưng ông rất cảm phục Chúa Giêsu, qua việc ông chăm chỉ đọc sách Tin-mừng hằng ngày, ông rất tâm đắc với Bài giảng trên núi, Chúa nói về tám mối phúc thật và lấy đó làm phương châm hành động cho mình. Nhờ đó mà ông quyết chọn một đường lối đấu tranh bất bạo động để cứu nguy cho nhân dân Aán độ. Thế rồi một hôm, ông muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Hội-thánh Công giáo, ông tìm tới một nhà thơ trong giờ thánh lễ để quan sát sinh hoạt của người Công giáo. Nhưng không may, ông vừa tới cửa định bước vào thì một người chức việc cản ông lại và nói:”Nếu ông muốn đến dự lễ thì xin ông hãy tìm đến một nhà thờ khác, nhà thờ này chỉ dành chongười da trắng thôi’ Nghe thế, ông lủi thủi bước ra, và từ đó không bao giờ ông nghĩ đến việc đi vào một nhà thờ nào nữa. Có lần ông phải cay đắng thốt lên: “Nếu như người Công giáo sống đúng như tinh thần Phúc âm của Chúa Giêsu, thì dân tộc của tôi bớt khổ biết mấy”
Nói đúng ra, không phải chỉ mình ông Gandhi mới có ý nghĩ ấy, mà nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng đã có lần lấy làm tiếc, vì thấy rằng, chỉ nội trong cộng đoàn người Công giáo nhỏ bé của chúng ta thôi, nhiều lần cũng có người phơi ra trước mặt mọi người cách ăn nết ở chẳng ra gì, khiến cho người ngoài hiểu sai về Tin-mừng của Đức Kitô. Họ công khai lớn tiếng thoá mạ, hạ nhục nhau ngay trước mặt những anh em luơng dân. Phải chi chúng ta phát huy được lối sống của người giáo dân thời các Tông đồ, dân chúng thời đó đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn các tín hữu đầu tiên, khi nhìn các Kitô hữu chung sống với nhau khiến họ phải thốt lên:Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô, đã ban ra cho chúng ta. Ngài nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là thấy anh em yêu thương nhau Quả thế cuộc sống huynh đệ của chúng ta chẳng những là dấu hiệu chứng tỏ tôi và bạn là người môn đệ Chúa, mà còn là một bài giảng sống động và hùng hồn nhất về Tin-mừng của Chúa.
Còn chần chừ gì nữa, ngay từ hôm nay, từ giậy phút này, chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc ngay, thời gian khẩn trương lắm rồi, Chúa đang cần những chứng nhân cho Tin-mừng. Hãy gấp rút sửa lại mọi lệch lạc của đời sống để mở lối cho nhiều tâm hồn đang trên đường tìm về với Chúa và Hội-thánh của Người. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam