Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1379484

CHÚA LAF ĐẤNG XÓT THƯƠNG

Chúa Là Đấng Xót Thương

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Năm lòng thương xót đang nóng lên từng ngày. Một luồng gió của lòng Thương Xót Chúa như đang bao trùm trên đời sống tín hữu. Xem ra ai cũng kỳ vọng nơi lòng thương xót Chúa sẽ làm nhiều điều kỳ diệu cho họ. Người người suy tôn lòng thương xót Chúa. Người người tín thác vào lòng thương xót Chúa. Họ kỳ vọng Chúa sẽ mở lòng để ban nhiều hồng ân xuống cho nhân loại khổ đau.

Cuộc sống có rất nhiều khổ đau. Khổ đau tâm hồn và khổ đau thể xác. Nỗi đau nào cũng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Vì khi gặp khổ đau mà chẳng còn biết bám vào đâu. Trước những nan giải của cuộc sống, họ chỉ trông chờ một phép màu từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa chẳng còn ai có thể giúp họ. Nơi Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho con người khi gặp khổ đau. 

Có nhiều bệnh nhân nan y dường như họ chỉ còn trông chờ phép lạ từ lòng thương xót Chúa. Họ đã tìm đến thầy thuốc, thậm chí đã vái tứ phương nhưng vẫn bất lực. 

Có nhiều người làm ăn chẳng gặp thời, nợ nần ngày càng chồng chất. Họ dường như bất lực không thể xoay sở gì thêm. Họ cũng đang trông chờ phép màu của lòng thương xót Chúa để cứu giúp họ. 

Có những giọt nước mắt của người cha, người mẹ đang tuyệt vọng vì đứa con nghiện ngập, ăn chơi sa đọa. Họ đang trông chờ lòng thương xót Chúa giúp con họ quay đầu trở về nẻo chính đường ngay. 

Có những người chồng người vợ đang thất vọng vì vợ chồng thiếu chung thủy với nhau, hay đang chìm đắm trong mê muội. Họ đang kêu xin lòng thương xót Chúa hàn gắn gia đình họ. 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Ngài chính là một lương y tài năng như tiên tri Isaia đã nói: “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Ngài có đủ quyền năng để chữa lành mọi bệnh tật tâm hồn, thân xác và Ngài lại giầu tình thương để ban phát ơn lành cho nhân thế. 

Phúc âm đã kể rất nhiều trường hợp đau bệnh được ơn chữa lành. Có người đàn bà bị bệnh băng huyết cả 18 năm nay nhờ gặp Chúa được chữa lành. Có người bị bại liệt suốt mấy chục năm nhờ Chúa mà tự mình đứng dậy không cần ai nâng đỡ. Có người hấp hối nơi giường bệnh được phục hồi. Có người Chúa cho từ cõi chết sống lại như cậu con trai bà góa thành Naim và Lagiaro bạn Ngài. 

Thế nên, hãy trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc đời. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác mỗi khi chúng ta gặp nguy nan. Chắc chắn tình thương Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng khi chạy đến cùng Ngài. 

Đồng thời, chúng ta cũng hãy làm chứng về lòng thương xót Chúa. Làm chứng bằng cách hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.  

Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.

 

32. Chúa giêsu mở ra thời đại mới cho nhân loại

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Trong suốt tháng vừa qua, báo chí trong và ngoài nước cùng nhiều người hết sức chú tâm theo dõi chính trường của Việt Nam, xem sắp tới những ai sẽ trở thành lãnh đạo trong tổ chức xã hội Việt Nam. Nhiều dự đoán được đưa ra, dân chúng kỳ vọng và so sánh, dự báo, ủng hộ người này, chê người kia. Có lẽ người dân Việt Nam chờ đợi nhiều nhất không hẳn là ông A hay ông B, cũng không hẳn khuynh hướng của các vị ấy nghiêng về phía Đông hay phía Bắc, nhưng điều quan trọng là những con người đại diện cho 90 triệu dân Việt có khả năng tạo được sự thay đổi rõ rệt, có đưa đất nước bước qua một trang sử mới, đem đến một tương lai mới hay không ? Nhiều người khác tỏ ra bi quan cho rằng, dù ông nào lãnh đạo cũng không hy vọng có sự thay đổi đột phá trong những năm sắp tới. Hơn lúc nào hết, người Việt Nam hiện nay đang mong chờ một sự thay đổi, một xã hội tốt đẹp, một tương lai tươi sáng.

Bối cảnh xã hội Việt Nam giúp chúng ta hiểu bối cảnh xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Dân chúng lúc đó đang mong đợi một vị Mêsia lãnh đạo theo cả nghĩa chính trị và tôn giáo. Họ muốn một vị Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít nổi lên đánh đuổi người Rôma, canh tân đổi mới xã hội, xây dựng một vương quốc Israel phồn thịnh, độc lập. Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài đã không hứa hẹn cho họ bất cứ điều gì liên quan đến chính trị, nhưng Ngài đưa ra một phương án mới, con đường mới để canh tân đời sống xã hội và con người, vì thế, dân chúng dường như không muốn theo Ngài.

Thánh Luca ghi nhận : Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về Galilê, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Dân Galilê đã nghe đồn về các bài giảng và các việc lạ Chúa Giêsu đã làm, nên họ kỳ vọng Ngài sẽ là người quy tụ dân chúng để làm cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên khi vào Hội đường, người ta trao cho Ngài sách Isai, mở ra gặp đoạn chép rằng : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó… Chắc chắn không phải tình cờ Chúa Giêsu đọc đoạn sách đó, nhưng đoạn sách đó được đọc vì lời tiên báo của Isai về sứ mạng của Đấng Mêsia nay được ứng nghiệm.

Đoạn sách cho thấy, Đấng Mêsia sẽ đem đến cho con người một hy vọng mới, một nếp sống mới và một thời đại mới. Đây là thời đại Tin Mừng tình thương của Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người, nhất là những người nghèo khó. Vị Mêsia này sẽ hoạt động dưới sức mạnh của Chúa Thánh Thần, được xức dầu để chính thức thi hành sứ vụ của Thiên Chúa. Ngài sẽ đem đến cho nhân loại một cuộc giải phóng khỏi những ràng buộc của tội lỗi và đau khổ. Ngài sẽ là Đấng đem lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho con người, đụng chạm tiếp xúc với con người và phục vụ mọi người bằng trái tim và đôi tay của Thiên Chúa.

Điều quan trọng hơn, là với quyền năng của một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ thực hiện một cuộc giải phóng thực sự, giải thoát con người khỏi tình trạng tội lỗi và sự trói buộc của ma quỷ, xác thịt. Ngài sẽ mở ra cho con người một tương lai mới, một thời đại mới, tuyên bố thời thứ tha của Thiên Chúa. Những ai tin tưởng, khiêm tốn đón nhận Ngài, đi theo con đường của Ngài sẽ tìm được ơn giải thoát. Những ai sẵn sàng để cho Ngài yêu thương chăm sóc, Ngài sẽ chữa lành vết thương cả thể xác và tâm hồn, đem đến niềm vui và bình an.

Sau khi nghe lời tuyên đọc của Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại từng cử chỉ rất trang trọng : Ngài gấp sách lại, trao cho người giúp việc, rồi ngồi xuống ; mọi người hướng nhìn về Ngài để đón đợi sự giải thích từ nơi Ngài. Từng động tác như thế cho thấy Chúa Giêsu như một vị quân vương xuất hiện trước bàn dân thiên hạ. Những người Do Thái chờ đợi những lời hiệu triệu oai phong của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã không làm như thế, Ngài đã nói với họ : Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Với một tuyên ngôn ngắn gọn như vậy, Chúa Giêsu khẳng định “hôm nay” là mở ra một trang sử mới, quá khứ đã khép lại, tội lỗi đã được tha ; “hôm nay”, Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài đã hứa qua các tổ phụ và các tiên tri ; “hôm nay”, ơn cứu độ đã được bắt đầu.

Việc làm của Chúa Giêsu tại Hội đường Nazaret được so sánh giống như việc làm của tư tế Esdra trong bài đọc một. Câu chuyện xảy ra sau khi dân Do Thái thoát cảnh lưu đầy bên Babylon, họ được trở về Giêrusalem tái thiết đền thờ, xây dựng lại quốc gia dưới sự điều khiển của Nekhemia và tư tế Esdra. Sau khi đã ổn định tình hình xã hội, tái thiết đền thờ, tư tế Esdra thực hiện một cuộc canh tân đời sống tôn giáo đã bị trì trệ suy thoái, bị ảnh hưởng bởi lối sống dân ngoại. Tư tế Esdra đã quy tụ dân chúng, ông đứng lên long trọng công bố luật Chúa cho toàn dân. Việc công bố này như một bản tuyên ngôn độc lập và như một lễ nghi tái cam kết thể hiện sự trung thành. Dân chúng than khóc về quá khứ tội lỗi, và cũng khóc vì vui mừng khi thấy Thiên Chúa vẫn một niềm thành tín yêu thương. Họ tái cam kết trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài, họ ăn mừng vì những ngày đen tối đã qua, thời đại mới đã mở ra.

Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho thấy, Chúa Giêsu đã đến để thiết lập một thời đại mới, thời đại của tình thương và ân sủng. Qua đó, mỗi chúng ta được hưởng tình thương của Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu, được trở thành thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa, thành công dân trong vương quốc của Chúa, từ đây không còn kỳ thị hay phân biệt màu da, sắc tộc, tất cả được tháp nhập vào thân thể Ngài, được tham dự vào sự sống thần linh của Ngài và làm nên chi thể của Ngài.

Thưa quý OBACE, Chúa Giêsu đã dành cả cuộc đời để thực hiện sứ mạng yêu thương, xây dựng Nước Trời nơi trần gian và trong tâm hồn con người. Ngài mời gọi mọi người, mọi dân tộc gia nhập vào vương quốc của Ngài, tiếp nối sứ mạng của Ngài để đem tình thương và lòng thương xót của Chúa đến cho anh em. Ngài cũng muốn mỗi người khi tham dự vào vương quốc của Ngài phải chấp nhận một sự thay đổi triệt để từ trong tâm hồn đến cuộc sống bên ngoài, đi theo giới răn lề luật của Nước Trời.

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, là Thiên Chúa đến ở với nhân loại, ngoài Ngài ra không có một đấng cứu chuộc nào khác. Tuy nhiên, nhiều người theo Chúa nhưng lại không chấp nhận tuân giữ lề luật của Chúa, theo Chúa nhưng lại không chấp nhận từ bỏ lối sống cũ và các tập tục của dân ngoại, họ vẫn tin kiêng cúng bái theo kiểu của dân ngoại. Thiên Chúa muốn bước đến gần con người để đồng hành và đồng lao cộng khổ với con người, nhưng dường như nhiều người từ chối, tránh né, không muốn để Ngài can thiệp vào cuộc sống của mình.

Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ rằng, mỗi người đã được thanh tẩy và được Thánh Thần xức dầu để trở nên con người mới. Vì thế, mỗi người cần phải sống và thi hành sứ mạng mà Chúa Giêsu đã thi hành, đó là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, công bố thời hồng ân thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta cần bắt đầu thi hành sứ mạng này từ trong gia đình, làm cho Tin Mừng thực sự trở nên sống động trong nhịp sống của gia đình, trở thành tiêu chuẩn cho mọi quyết định và công việc của gia đình. Hãy lấy lòng nhân từ và thương xót của Chúa để yêu thương vợ, chồng, con, cháu, qua sự quan tâm, thông cảm và nâng đỡ, tạo cho nhau cơ hội để làm mới lại cuộc đời.

Các bạn trẻ Công giáo là những người có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người trẻ khác, chúng ta hãy trở thành cánh tay nối dài và giang rộng của Chúa để có thể đụng chạm, đón nhận những người đau khổ, nghèo khó về tinh thần và thể xác. Chúng ta cần có một đôi mắt thật sáng và một trái tim thật nhạy cảm để có thể nhìn thấy những nhu cầu của các bạn xung quanh và đừng ngần ngại để cho trái tim của mình xúc động trước nỗi đau của bạn hữu.

Nhờ được nâng đỡ bởi Bí tích Thánh Thể, được Lời Chúa hướng dẫn, xin cho mỗi người chúng ta luôn ý thức mình là công dân Nước Trời và nhiệt thành làm cho Nước Trời được lan rộng khắp nơi. Amen.

 

33. Niềm Vui Từ Thiên Chúa Là Sức Mạnh Của Chúng Ta

Lm. GB Văn Hào

 

Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Giêsu. Mỗi chi thể đều quan trọng và cần thiết để cho toàn thân được khỏe mạnh. Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc chúng ta điều này. Sống trong lòng Giáo hội, chúng ta cần ý thức phần vụ của mình để xây dựng nhiệm thể, đồng thời khi sự sống thần linh được lưu chuyển trong ta, chúng ta sẽ đón nhận được sức mạnh từ nơi Thiên Chúa và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa bên trong tâm hồn

Nhiệm thể Chúa Kitô

Qua bài đọc thứ hai hôm nay, Giáo hội gợi lại tư tưởng của thánh Phaolô trích trong thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô. Thánh Tông đồ nêu bật giáo lý căn bản về Giáo hội. Ngài viết: “Tất cả chúng ta, cho dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một Thần khí để trở nên một thân thể” (1Cor 12,12-13). Qua bí tích rửa tội, chúng ta chia sẻ một ơn gọi duy nhất, đó là trở nên con cái Thiên Chúa và được gắn kết nên một với nhau trong Thần Khí. Sự gắn kết này biến chúng ta thành một thân thể duy nhất, và đây là thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Đức Kitô Kitô là đầu, còn lại mỗi người đều là chi thể trong thân xác nhiệm mầu ấy.

Vì được hút nhựa sống từ thân mình mầu nhiệm thánh thiêng của Chúa, chúng ta được nuôi sống khi ăn Mình Ngài và đón nghe Lời của Ngài. Bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa mà chúng ta tham dự mỗi ngày luôn mang chở chiều kích Giáo hội. Nơi cả hai bàn tiệc này, chúng ta được nuôi sống, được tăng trưởng và có được sức mạnh thần linh.

Bài đọc thứ nhất trong phụng vụ cũng thuật lại việc toàn dân tụ tập tại một quảng trường lớn để nghe ông Estra đọc sách luật (sách Torah) và giảng dạy. Người Do thái vẫn đều đặn họp nhau trong các hội đường để nghe sách thánh. Thường mỗi làng có một hội đường để họ quy tụ lại. Bất cứ người đàn ông nào trên 30 tuổi đều có thể được cắt cử để đảm nhận sứ vụ đọc sách luật và sách các tiên tri cho cả cộng đoàn.

Cũng tương tự như thế, thánh Luca trong bài Tin mừng cũng thuật lại thời gian ban đầu khi Đức Giêsu khởi sự sứ mạng rao giảng. Ngài vào một hội đường đọc một đoạn trong sách ngôn sứ Isaia và cắt nghĩa cho dân. Hình ảnh hội đường Do thái giáo trong cựu ước phác vẽ trước hình ảnh Giáo hội. Hạn từ ‘ekklesia’ mang chở cả ba chiều kích : vừa nói về các buổi tụ họp của cộng đoàn dân Chúa, vừa ám thị các nhà thờ, và đồng thời đó cũng chính là Giáo hội của Chúa Kitô (sách Giáo lý Công giáo số 751).

Cảm thức thuộc về Giáo hội (sensus ecclesiae)

Giáo hội vừa hữu hình vừa thánh thiêng. Giáo hội hữu hình có cơ cấu phẩm trật, có Đức Thánh Cha, có hàng giáo phẩm, có giáo sỹ và giáo dân như chúng ta vẫn thấy. Giáo hội hữu hình được nhìn thấy rất rõ nét qua các cộng đoàn giáo xứ với những ngôi nhà thờ khang trang và những nghi lễ sầm uất bên ngoài. Nhưng trước hết, Giáo hội tự bản chất là nhiệm thể thánh thiêng của Đức Kitô. Giáo lý Công giáo đã khẳng định ngoài Giáo hội không có ơn cứu rỗi. Bởi lẽ ơn cứu độ đến từ Đức Giêsu, và Chúa Kitô thực hiện ơn cứu rỗi ngang qua Giáo hội, vì Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Ngài. Các Bí tích trong Giáo hội là công cụ Đức Giêsu sử dụng để thông chuyển ơn cứu độ xuống cho nhân loại (xem sách Giáo lý Công giáo số 778-779). Chúng ta được mời gọi khơi dậy cảm thức thuộc về (sense of belonging) để góp nhần xây dựng Hội thánh, cụ thể tại mỗi cộng đoàn Giáo hội địa phương. Chúng ta không chỉ đến nhà thờ tham dự thánh lễ như hưởng nhận một ‘dịch vụ’ xã hội, nhưng cần phải chung tay xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, cụ thể tại Giáo hội địa phương nơi chúng ta thuộc về.

Ông Voltaire là một triết gia người Pháp thuộc thế kỷ thứ 18. Ông là một người Công giáo đã được rửa tội từ nhỏ nhưng khi lớn lên đã bỏ đạo và đi theo cách mạng. Ông tự hào là một trí thức, một triết gia và ông đề ra khẩu hiệu ‘Hãy đánh đổ con quái vật này đi’ (ám chỉ Giáo Hội). Ông lập một nhóm lấy tên là Beelzebut để chuyên phá hoại Giáo hội, sát hại các tín hữu đặc biệt các linh mục. Năm 1753 ông ngạo mạn tuyên bố :“Chỉ cần 20 năm nữa khi khoa học phát triển, Giáo hội sẽ bị triệt phá hoàn toàn và Thiên Chúa có thể về hưu được rồi”. Nhưng 20 năm sau, ông lâm trọng bệnh và nằm đau đớn giẫy chết trên giường bệnh. Ông thấy Giáo hội vẫn tồn tại và Thiên Chúa vẫn chưa về hưu như ông đã tiên đoán. Trong đau đớn tột cùng, ông thốt lên: “Tôi đã phạm một sai lầm rất lớn là chống đối Giáo hội. Tôi thấy cửa hỏa ngục đang mở ra và chờ đón tôi”. Ông gào thét trong hoảng loạn và tắt thở. Một người bạn đứng bên giường bệnh khi chứng kiến giây phút kinh hoàng ấy đã nói: “Tôi chưa thấy cái chết nào ghê sợ giống như cái chết của anh bạn Voltaire của tôi.”

Chúng ta đang sống trong Giáo hội và thuộc về Giáo hội. Chúng ta đừng hỏi Giáo hội đã làm được gì cho tôi nhưng hãy hỏi ngược lại là tôi đã làm được những gì cho Giáo hội.

Chúa Giêsu, đầu của Hội thánh

Trong bài Tin mừng hôm nay, tại hội đường Do thái giáo, Chúa Giêsu đã công bố cho mọi người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21). Điều mà thính giả vừa nghe đó là lời ngôn sứ Isaia nói về một kỷ nguyên mới do chính Đức Giêsu khai mở. Ngài được ‘Thần Khí Chúa đậu xuống, được xức dầu và sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố năm hồng ân của Chúa’. Hội đường Do thái giáo ngày xưa là hình bóng của Giáo hội ngày hôm nay. Dân Chúa quy tụ bên nhau để cử hành phụng tự hướng về Thiên Chúa. Cũng từ trong lòng Giáo hội, chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong đời sống đức tin.

Chúa Kitô là đầu của Hội Thánh. Ngài là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta (châm ngôn của Đức Cha Lambert de la Motte). Cuộc sống chúng ta phải quy chiếu vào Ngài và chúng ta phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta mỗi ngày.

Kết luận

Năm nay Giáo hội cử hành năm thánh Lòng Thương xót. Lòng thương xót đó được diễn bày nơi Đức Giêsu ngang qua Giáo hội. Lòng thương xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa (tư tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô), song song với tên gọi ‘Tình Yêu’ mà Thánh Gioan đã nói tới trong thơ thứ nhất của Ngài. Lòng thương xót cũng được tỏ bày qua chân dung cứu thế mà Đức Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay: “Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức”. Đây là sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu năm xưa và cũng là sứ mạng của Giáo hội hôm nay. Chúng ta được mời gọi tham phần vào sứ mạng thiêng liêng ấy khi sống giữa lòng Giáo hội, đặc biệt trong năm thánh này.

 

34. Tiếp Nối Sứ Vụ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

 

Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.

Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.

 “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. 

  1. Loan báo Tin Mừng

Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo : kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro).

Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay.Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết:“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo.Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.

Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết.Sỡ dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu.Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mìnhNgười chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.

Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.

Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu.Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ.“Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).

Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.

  1. Đi công bố

Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo :

– Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.

– Cho người mù biết họ được sáng mắt.

– Trả tự do cho người bị áp bức.

– Công bố một năm hồng ân của Chúa.

Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn ? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó ? Ai mà không “mù” một cách nào đó ? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó ? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).

Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).

  1. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(Lumen Gentium, 8).

Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.

Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.

 

35. Năm Hồng Ân

Trầm Thiên Thu

 

Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã thông báo: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở Sion tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là cây thánh rừng thiêng, là vườn cây Đức Chúa trồng để làm cho Người được vinh hiển” (Is 61:1-3).

Năm Hồng Ân là năm thực hiện công lý, thể hiện công bình và bác ái, và cũng là thể hiện lòng thương xót đối với mọi người – đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Một sự trùng hợp kỳ diệu vì chúng ta đang sống trong Năm Thánh ngoại thường: Năm Thánh Lòng Thương Xót (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016).

 Đầu năm Phụng Vụ mới, người ta đề nghị ba quyết định rất tuyệt vời, đáng để chúng ta học hỏi: [1] Hành động theo ý Chúa muốn, [2] Hành động theo cách Chúa muốn, [3] Hành động vì Chúa muốn vậy. Và có thêm bốn nỗ lực khác cũng rất thú vị: [1] Mạnh mẽ hơn về thể lý, [2] Mạnh mẽ hơn về trí tuệ, [3] Mạnh mẽ hơn về cảm xúc, [4] Mạnh mẽ hơn về tâm linh.

Sách Nơ-khe-mi-a cho biết: “Ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này” (Nkm 8:2-4a). Luật Chúa rất cần nghiên cứu và tuân thủ hàng ngày, giữ luật Chúa là yêu mến Ngài. Mà luật Chúa là yêu người. Thánh Gioan phân tích rạch ròi: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 2:4-5).

Sách Nơ-khe-mi-a cho biết thêm: “Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: ‘A-men! A-men!’. Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa” (Nkm 8:5-6). Lời Chúa được mọi người kính trọng, họ đã chứng tỏ bằng hành động cụ thể.

Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng về ăn mừng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:8-10). Ngày thánh hiến là ngày hạnh phúc, năm hồng ân là năm vui mừng. Tại sao? Vì Thiên Chúa ban ơn thánh ban chan hòa cho những người tuân giữ Thánh Luật của Ngài.

Luật Chúa là huấn lệnh của Chúa, kỳ diệu lắm. Tác giả Thánh Vịnh cho biết chi tiết: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:8-10). Biết được như vậy, chúng ta thật an tâm và hạnh phúc tuân giữ.

Tuy nhiên, phàm nhân dễ “hứa lèo” lắm, hứa đó rồi quên đó, nói hay lắm mà chẳng làm được chi. Vì thế, chúng ta phải cầu xin như một lời khấn nguyện: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài” (Tv 19:15).

Đối với Thiên Chúa, năm nào cũng là Năm Hồng Ân, lúc nào cũng là Năm Thánh. Có ngày này, tháng nọ, năm kia là để nhắc nhở chúng ta đừng quá vui, quá buồn hoặc quá lo mà quên Chúa. Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta qua lệnh truyền của Ngài dành cho mọi người – không trừ ai, ở mọi nơi và mọi thời, ai cũng phải loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, đặc biệt là thực hiện công lý, hành động cụ thể đó là “loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4:18-19), “sự giam cầm” có thể hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Mọi người đều có mối liên hệ nào đó với nhau – dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp, đặc biệt là trong mối quan hệ tâm linh, vì tất cả chúng ta đều là các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô – Đấng cứu độ và giàu lòng thương xót.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã so sánh: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13).

Thân thể chỉ một nhưng gồm nhiều bộ phận. Và Thánh Phaolô ví von khá chi tiết: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’; đầu cũng không thể bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12:12-21).

Chuyện kể rằng, răng ỷ mình cứng nên chê môi mềm nên cứ phải dựa vào nó, và chê lưỡi mềm nên cũng phải nhờ vả nó. Trời lạnh, môi và lưỡi co lại, răng dù cứng nhưng chịu buốt giá và rụng dần, còn môi và lưỡi mềm nhưng vẫn không sao. Tục ngữ nhận định chí lý: “Cười người hôm trước, người cười hôm sau”. Sông có khúc, người có lúc, nay thế này, mai thế khác, đừng ảo tưởng, chớ ỷ mình thế này hoặc thế nọ mà rồi có lúc không biết giấu mặt nơi nào. Hối không kịp. Muộn!

Thánh Phaolô cho biết cụ thể: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12:22-26). Cơ thể chúng ta có nhiều bộ phận, mỗi bộ phận là một bài học phong phú mà chúng ta phải học để sống. Thiên Chúa thật kỳ diệu!

Quả thật, đơn giản như lý do mỗi người có HAI tay, HAI chân, HAI tai, HAI mắt, HAI lỗ mũi, nhưng chỉ MỘT miệng. Tại sao vậy? Thiên Chúa muốn chúng ta làm nhiều, đi nhiều, nghe nhiều, nhìn nhiều, ngửi nhiều, nhưng NÓI ÍT hoặc KHÔNG NÓI. Tương tự, có HAI bán cầu não mà chỉ có MỘT trái tim: Suy nghĩ nhiều và yêu thương thật lòng.

Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30). Chắc chắn mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm riêng, mỗi người như viên gạch, ở chỗ này hoặc chỗ kia, nhưng viên nào cũng có tầm quan trọng riêng, và cùng liên kết để làm nên bức tường và tòa nhà. Biết vậy rồi, không ai có thể dám kiêu ngạo về bất cứ thứ gì hoặc với bất cứ lý do gì. Quả thật, kiêu ngạo là ngu xuẩn, là khốn nạn chắc chắn bị Thiên Chúa loại trừ (x. Lc 1:52).

Ước gì chúng ta triệt tiêu được tự ái, nhờ vậy mà triệt tiêu được thói kiêu căng, nhờ vậy mà biết thương xót và nhân hậu theo lời Chúa Giêsu căn dặn.

Đầu Phúc Âm thứ ba là lời tựa và đề tặng (Lc 1:1-4), Thánh sử Luca viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc”.

Thánh Luca là người Hy Lạp, tân tòng, môn đệ của Thánh Phaolô, tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Công Vụ. Ông là dân trí thức, giỏi viết văn mà cũng khéo kể chuyện. Ông đề tặng cả hai tác phẩm cho một nhân vật thế giá tên là Thê-ô-phi-lô, cũng là tân tòng. Theo Hy ngữ, Thê-ô-phi-lô có nghĩa là “người yêu mến Chúa”. Rất có thể ông là tân tòng đại diện cho nhóm độc giả mà ông Luca nhắm tới, vì muốn họ am tường về giáo huấn của đạo mới.

Phúc Âm của Thánh Luca được viết vào khoảng giữa năm 70 và 75 sau công nguyên. Thánh Luca là thầy thuốc nên quan tâm vấn đề y đức: Lương y như Từ Mẫu. Ông đề cao 3 điều: [1] Chúa Giêsu là Ðấng cứu độ mọi người, giao hoà nhân loại với Thiên Chúa; [2] Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thương xót; [3] Tinh thần từ bỏ mình và sống nghèo khó. Quả thật, trong Phúc Âm này có ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót: [1] Con chiên bị mất (Lc 15:4-7), [2] Đồng bạc bị mất (Lc 15:8-10); và nổi bật là [3] Người cha nhân hậu (Lc 15:11-32).

Trong đoạn Lc 4:14-21, Thánh Luca cho biết rằng, Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê. Ngài giảng dạy trong các hội đường chí lý và chí tình nên được mọi người tôn vinh, do đó tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương, đó là điều tất nhiên, không ai có thể chối cãi và phải tâm phục, khẩu phục.

Khi Ngài về quê hương Nadarét, nơi chôn nhau cắt rốn, Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sa-bát, rồi Ngài đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4 :18-19). Đó là đoạn Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã đề cập Năm Hồng Ân (Is 61:1-3), tức là năm đặc biệt mà chúng ta gọi là Năm Thánh.

Đọc xong, Ngài cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Rồi Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Kinh Thánh là Thánh Ngôn của Thiên Chúa, cũng là Thánh Ý của Ngài muốn đối với mỗi chúng ta. Chẳng chóng thì chày, Kinh Thánh luôn ứng nghiệm đến từng chi tiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định rằng Ngài đến thế gian không phải là để bãi bỏ luật Cựu Ước hoặc luật Mô-sê, nhưng để kiện toàn lề luật. Mọi chi tiết đều nên trọn, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Lúc nào chúng ta cũng sống trong Năm Hồng Ân, bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu Năm Hồng Ân. Tuy nhiên, vì điều kia hoặc sự nọ mà chúng ta đã và đang có những lúc quên khuấy đi mất. Có những lúc giật mình hồi tâm, chúng ta mới thấy mình thật tệ đối với Thiên Chúa. Từ nay, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ước gì ai cũng tự nhủ như tác giả Thánh Vịnh thế này: “Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (Tv 119:11). Đồng thời cũng mong sao chúng ta can đảm bảo vệ sự sống, bảo vệ chân lý và công lý như Chúa Giêsu đã truyền dạy, để thế giới không còn tình trạng bất công, áp bức, bóc lột,… ai cũng được sống tự do đích thực đúng với nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết tận dụng thời gian còn thở để nhận biết Hồng Ân bao la Ngài ban tặng cho con vì Lòng Thương Xót của Ngài. Để nhờ vậy, con có thể thở bằng nhịp thở của Thánh Tâm Chúa Giêsu, cố gắng thở mà không than chi cả. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ