Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 41
Tổng truy cập: 1378597
Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị em! Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy. Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung sướng: "Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá". Thế nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình? Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này. Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm. Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá. Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu đã nói trước: "không thể làm môn đệ Ta được".
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: "Hữu sinh hữu khổ" là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình, hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người, thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: "Ơn Ta đủ cho con". Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
14. Đức Tin cột trói chúng ta
(Peter Feldmeier - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống ngươi trở nên đông đúc.”
Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm. Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt, thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc’’. Cả ba nhận định trên đây đều phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày. Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng ta không độc ác như thế đâu.
Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn. Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời của lời hứa.
Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.
Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng, dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.
Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu dấu của ta, hãy nghe lời Người”. Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.
Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.
15. Con yêu dấu – Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là công khai rao giảng về nước trời.
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con
Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên Chúa đã đến gần.
Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài
Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu, sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).
Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.
Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa, nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.
16. Suy niệm của AM Trần Bình An
Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục...
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế gian... (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)
Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi, lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.
Đăng sơn
Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày, leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin, tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa Tình Yêu.
Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn, chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.
“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được.” (Lc 14, 33) Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”(Lc 14, 26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 27)
Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa.
Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối, ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa và Thánh Thể.
“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)
Hạ sơn
“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9, 7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được cứu rỗi.
Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người.” (Lc 9, 37) Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.
Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10, 45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.
Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh tân, sống theo Tin Mừng.
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam