Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 46

Tổng truy cập: 1378413

Chúa Nhật 3 Thường Niên

Chúa Nhật 3 Thường Niên

NGỌN ĐÈN TÂM HỒN CỦA TA CÓ ĐƯỢC CHÚA THẮP LÊN KHÔNG?

Anh chị em thân mến,

Lúc Mẹ Têrêsa Calcutta ở nước Úc, một hôm Mẹ đến thăm một người nghèo già không ai biết tới. Căn phòng của ông dơ bẩn, đồ đạc ngổn ngang, lại không cửa sổ, không một bóng đèn. Mẹ bắt tay vào dọn dẹp, nhưng ông quát lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi!" Nhưng Mẹ vẫn tiếp tục. Khi mọi thứ vào ngăn nắp, Mẹ tim thấy một cây đèn dầu ở góc phòng đầy bụi. Mẹ hỏi: "Sao lâu rồi ông không thấp đèn lên?"- "Thắp làm chi? Có ai tới thăm tôi đâu!" - "Nếu sau này khi nữ tu của tôi tới thăm ông, ông hứa sẽ thắp đèn lên nhé!" Ông trả lời cởi mở hơn: "Vâng, tôi sẽ làm như vậy!" Sau đó mỗi ngày, các nữ tu đều tới chăm sóc cho ông...Một hôm ông nói với một chị em: "Bây giờ tôi biết tự dọn dẹp cho mình rồi. Cám ơn các cô. Các cô làm ơn nói lại với Bà nữ tu đầu tiên rằng: ngọn đèn mà bà đã thắp lên nay vẫn tỏa sáng." (Trích "Sợi chỉ đỏ")...

Qua câu chuyện này, ta thấy Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn đèn dầu cho ông già nghèo. Điều đó đã không vô ích. Chúa Giêsu muốn thắp lên ngọn đèn tâm hồn trong ta, ta có muốn nó luôn sáng không? Đây là đề tài chúng ta sẽ suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...

a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn nạn ta cần tìm hiểu:

Một: Chúa Giêsu kêu gọi: "hãy theo Thầy"; chính khi Chúa kêu gọi là Người muốn thắp lên ngọn đèn trong tâm hồn chúng ta... Trong những ngày đầu tiên ra đi rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người mà nói: "Nước Thiên Chúa đang đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Đang đi dọc theo bờ biển, Chúa thấy hai anh em ông Simon đang thả lưới xuống biển; Chúa gọi họ: "hãy theo Ta...." Lập tức, họ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn gieo vào tâm hồn các môn đệ niềm tin đầu tiên, cũng là hình ảnh Chúa thắp lên trong tâm hồn ngọn đèn niềm tin. Đó cũng chính là hình ảnh Mẹ Têrêsa thắp lên cho ông già nghèo bị bỏ rơi, ánh đèn dầu, ánh đèn mà bao lâu nay chính ông không buồn thắp lên, cũng không được ai thắp lên cả. Ông hầu như đã bị mất niềm tin nơi mọi người, như hình ảnh cây đèn bị bỏ xó, không ai quan tâm tới nữa. Ông cũng không hi vọng ngọn đèn của mình được sáng lên.

Hai: Các môn đệ bỏ hết mọi sự mà theo Chúa: Khi bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, chính là các môn đệ muốn giữ chiếc đèn tâm hồn của mình, đã đuợc Chúa thắp lên, để nó được sáng luôn luôn, không tắt nữa. Thái độ của các môn đệ sẵn sàng bỏ hết mọi sự để theo Chúa cũng nói lên thái độ tích cực của mình, sẵn sàng theo Chúa, sẵn sàng từ bỏ bản thân, ý riêng mình để nghe lời Chúa, sẵn sàng giữ gìn ngọn đèn cho nó luôn tỏa sáng, như câu chuyện ông già nghèo sẵn sàng nghe lời Mẹ Têrêsa Calcutta, giữ ngọn đèn dầu sáng lên mỗi khi chị em tới thăm. Chúa Giêsu có nói hứa sẽ biến họ thành kẻ lưới người ta, không chỉ là người chài cá. Lúc đó, các môn đệ có thể không hiểu bao nhiêu. Ở đây ta chỉ nói đến thái độ sẵn sàng, thái độ của lòng tin. Chính Chúa đã thắp lên trong họ ngọn đèn lòng tin; phần họ, họ lại sẵn sàng gìn giữ ngọn đèn lòng tin được tỏ sáng...

b/. Câu chuyện: Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Brasil kể rằng: "Anh ruột của tôi có rửa tội hồi nhỏ. Lớn lên học trường dòng, nhưng rồi lôi thôi; sau đó lại bỏ đạo luôn. Sau khi tôi làm linh mục, anh về sống chung với tôi. Mỗi lần tôi đi giảng tỉnh tâm, anh hỏi: Chú sẽ nói về cái gì? Tôi giải thích cho anh nghe bài giảng của mình. Tám năm sau, anh bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Biết mình không sống được, anh gọi tôi: Tôi thấy nơi chú, giữa bài giảng và việc làm của chú không có sự cách biệt; Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước lễ được không? Tôi nói: Em tin lòng thương xót của Chúa sẽ tha thứ cho anh. - Nhưng tôi chưa đi xưng tội? Tôi định tìm một linh mục cho anh, nhưng anh xin xưng tội với tôi...Sau khi rước lễ xong, anh thều thào: Bây giờ tôi tin Chúa, không phải dựa vào lòng tin của chú, mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi...Sau đó anh chết cách bình an. (Vietcatholic news 12. 2007).

Đức TGM Brasil đã nói với người anh của mình: "Hãy theo Chúa"; Ngài không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính cách sống của mình. Anh của Ngài đã tin, người anh đã muốn giữ ngọn đèn mà em của ông thắp lên trong tâm hồn của mình; chính vì lẽ đó, trong giờ phút cuối cùng, ông đã ăn năn trở lại và đã chết bình an, nghĩa là ông giữ cho chiếc đèn tâm hồn mà em ông thắp sáng lên, không hề tắt nữa.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Câu chuyện trên đẹp quá, phải không anh chị em? Nhưng nó sẽ đẹp hơn nhiều, nếu mỗi người kitô hữu chúng ta biết để Chúa Kitô thắp chiếc đèn tâm hồn cho mình, nghĩa là mình sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi: "Hãy theo Thầy". Ta có nghĩ rằng Chúa Kitô muốn nói với ta: "Hãy theo Thầy". Tin như vậy, Ta có sẵn sàng bỏ hết mọi sự mà theo Chúa không?

 

39. Nhìn về tương lai - Lm. Jos Nguyễn Hữu An

Có một thầy ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn"

Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.

Một hôm vắng người, thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: "Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".

Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.

Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.

Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.

Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.

Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.

Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.

Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: "Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."

Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?

Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27)

Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.

Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể.

Đó là những người chài lưới, "ăn với sóng, nói với gió", ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?

Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?

Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.

Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.

Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.

Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.

Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.

Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.

Về mặt xã hội, hai mươi mấy năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.

Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời... Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.

 

40. Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.

(Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu)

Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành "lớn quá trời rộng ba ngày đàng" (Ga 3,3), đặc biệt đó là một kinh thành ngoại giáo. Chính trong kinh thành này, lời sấm của Ngôn sứ Giona đã vang dội khắp hang cùng ngõ hẻm, dội tới cung điện đức vua. Điều kinh ngạc là dân thành đã "tin vào Thiên Chúa" và tin vào lời rao giảng sám hối của sứ giả Thiên Chúa sai đến. Nhà vua đã ra chiếu chỉ bắt toàn dân từ vua quan tới thứ dân phải theo nghi tiết sám hối... Và Thiên Chúa đã chấp nhận tấm lòng thống hối của Ninivê.

Đức Kitô, sau thời gian tĩnh tâm trong sa mạc đã khai mào việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại Galiê:

"Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc 1,14)

Theo địa dư, Galilê giáp với xứ Samarie và miền Syrô-Phénicie, ngoài dân địa phương là người Do Thái lập cư, còn có các sắc dân thiểu số ngoại bang khác cư trú, họ là những người ngoại giáo. Điều đáng lưu ý là Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ Galilê. Rồi sau khi sống lại, Ngài cũng hẹn với các môn đệ của Ngài ở Galilê (Mc 14,28 và 16,7). Quả thực, Tin Mừng đã được công bố cho cả dân tộc Do Thái và dân ngoại.

Một trong những điều kiện tiên quyết để đón nhận nước Thiên Chúa chính là lòng hối cải: "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14). Đọc hạnh các thánh, nhất là những vị đại thánh, chúng ta kinh ngạc và thán phục con đường cải quá tự tân dẫn các ngài từ con đường sa đọa tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa: Một Augustin, một Charles de Foucauld... và biết bao những tâm hồn lành thánh khác. Lòng hối cải thường bắt đầu với sự đánh động từ thâm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.

Lý do khiến con người hối cải thật lớn lao: để tiếp nhận Nước Thiên Chúa, đón nhận ơn cứu độ. Con người từ bỏ kiếp sống nô lệ tội ác trở về với thiên chức con cái Thiên Chúa. Trong cái nhìn vĩnh cửu và khải huyền đó, thánh Phaolô đã khuyên tín hữu thành Corinthô hãy hướng nhìn về tương lai:

"Vì bộ dạng thế gian này đang qua đi" (1 Cr 7,31)

Dân thành Ninivê sống vào thế kỷ thứ 8 trước kỷ nguyên, rồi đến các tín hữu thành Côrinthô cũng như những người đồng thời với Đức Kitô quả thực họ đã qua đi. Bao nhiêu đế quốc đã sụp đổ hoang tàn không còn vết tích. Và thế gian với những phù hoa của nó: tiền tài, danh vọng và sắc dục... tất cả cũng sẽ qua đi. Sống trong kiếp phù du, con người thường bị vật chất ru ngủ, quên đi kho tàng khôn sánh ví là Nước Thiên Chúa. "Và tức khắc họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài", các môn đệ đầu tiên theo Đức Kitô hẳn đã hiểu phần nào Tin Mừng nước Thiên Chúa họ đã nghe Thầy mình rao giảng, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, ngay cả những gì cấp thiết nhất cho kế sinh nhai của họ. Còn chúng ta, những người con đang sống trong thế giới mau qua chóng hết này, chúng ta phải có thái độ và nếp sống nào đối với Tin Mừng Nước Thiên Chúa chúng ta đã lãnh nhận?

 

41. Chúa Nhật 3 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Con người ai cũng nặng tình gia đình không thể rời xa cha mẹ. Thế mà, anh chị em đã từng chứng kiến: biết bao người đã dám từ bỏ cha mẹ mình cách dứt khoát, để chạy theo tiếng gọi của tình yêu. Khi đó họ không còn phải suy nghĩ gì nhiều đến cha mẹ mình nữa, chỉ còn có con tim là trên hết. Tiếng gọi của con tim nó bao phủ tất cả, nó lấn át tất cả. Khi đó họ không cần biết những gì sẽ chờ đợi mình, không cần biết tương lai sẽ ra sao. Họ chỉ cần biết, giờ đây họ hành động theo lệnh lệnh của con tim mách bảo và bước theo tiếng gọi của tình yêu. Như thế họ bắt đầu một cuộc đời mới mà không cần suy nghĩ gì nhiều. Mỗi người đều trải qua giai đoạn như thế, cứ sự thường thì chăng ai hối tiếc về việc làm đó của mình cả.

Các tông đồ cũng thế. Các ông cũng bước đi theo tiếng gọi: hãy theo Ta. Chúng ta nhìn xem thái độ của các ngài như thế nào? - Không một tiếng trả lời, vội đứng dậy, bỏ tất cả để ra đi. Các ông đã bỏ cha mẹ, bạn bè thân hữu, tài sản, cả những gì đã từng làm vướng bận tay chân các ngài bấy lâu nay: đó là chiếc lưới với những mớ dây chằn chịt đã từng trói chặt đôi chân các ngài, không cho các ngài đi đâu . Thế mà giờ đây tất cả cả những thứ đó đều trở nên vô dụng trước tiếng gọi của tình yêu cao cả. Các ngài đã dứt khoát những gì gần gủi với mình bấy lâu nay để bước đi mà không cần biết đi đâu, không cần biết tương lai như thế nào và cũng chẵng cần biết phải làm gì. Giờ đây các ngài chỉ cần biết nghe theo tiếng gọi và đáp trả là đủ. Cuộc đời các ngài đã trung thành với tiếng gọi. Các ngài đã làm tròn những gì mà tiếng gọi đòi hỏi, cho đến đỗi đã dám hy sinh cả mạng sống vì tiếng gọi. Lời mời gọi đó vẫn còn vang lên mãnh liệt qua từng thời đại. Cũng có biết bao người không thể từ chối hay cưỡng lại được nên cũng đã bước theo và trung thành cách tốt đẹp.

Ngày hôm nay, tiếng gọi tình yêu cao cả đó cũng đã vang đến bên tai mỗi người chúng ta, và chúng ta cũng đã đáp lại . Mỗi người cũng đã dứt khoát và bước đi theo tiếng gọi. Nhưng rồi từng ngày, từng ngày trôi qua và giờ đây mỗi người nhìn lại mình xem: Chúng ta đã sống theo tiếng gọi như thế nào? Mệnh lệnh con tim thuở ban đầu giờ đây chắc không còn hiệu quả lắm đối với chúng ta. Bởi vì thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn trở về cây da cũ bến đò xưa, để tìm lại những bạn bè năm xưa. Đó là mỗi khi phạm tội, là chúng ta đã trở về với con người chưa được kêu gọi. Chúng ta cũng còn để cho những mớ chày lưới rối tung đó quấn chặc những bước chân của mình để rồi không thể tiếng bước thêm được nữa. Cũng có những lúc chúng ta để cho những tình cảm riêng tư trong con người nỗi lên lấn át cả tiếng gọi linh thiêng của mối tình cao cả mà ngày nào mình đã can đảm bước theo. Nhưng giờ đây đôi lúc chúng ta sợ sệt: sợ không còn ai yêu thương mình, nếu sống theo tiếng gọi mà mình đã bước theo, sợ thiệt hại bản thân nếu sống đúng với những gì tiếng gọi đòi hỏi, sợ mất đi một chút thời giờ quí báu để hưởng thụ cho thân xác nếu mình sống đúng với những gì sứ mệnh của tiếng gọi đòi hỏi. Nỗi lo sợ đó là những mớ dây chày lưới đã trói bược đôi chân, khiến chúng ta không thể bước đi thoải mái theo tiếng gọi và trung thành với những gì mà tình yêu cao cả đòi buộc chúng ta.

Nếu tất cả mọi hành động, mọi lời nói của chúng ta đều phát xuất bởi tình yêu , nếu chúng ta biết đối xử với người khác bằng tất cả tình yêu thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nếu chúng ta biết sống như thế nào để người khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta thì như thế mình đã sống trọn vẹn và trung thành với tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương thật sự, để trung thành đáp lại lời mời gọi của Chúa trong đời sống hằng ngày.

 

home Mục lục Lưu trữ