Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 81

Tổng truy cập: 1379650

CHÚNG TA CÓ HƯỚNG VỀ TÂM ĐIỂM KHÔNG ?

Chúng ta có hướng về tâm điểm không?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’

1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.

2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.

 

14. Một tình yêu duy nhất.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.

Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.

Thưa anh chị em,

Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.

Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.

Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.

Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.

Thưa anh chị em,

Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…

Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).

Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).

Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.

 

15. Lề luật bóp chết con tim

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.

Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.

Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.

Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.

Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.

Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.

Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.

Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.

Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.

Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.

 

16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi

Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.

Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.

Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,

Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.

Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân… Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.

Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.

Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ