Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 46
Tổng truy cập: 1378793
CÓ CHÚA CÙNG ĐI
Có Chúa cùng đi
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu cùng sánh bước với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Vậy hình ảnh đẹp này đem lại những hậu quả nào cho cuộc sống của chúng ta?
Cựu Ước đã đưa ra một kinh nghiệm, một xác tín, đó là nếu có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ hãi, đồng thời sẽ có đủ nghị lực, nếu không thành công rực rỡ, vượt qua những gian nguy thử thách, thì ít nữa cũng biết chịu đựng cho nên. Thánh Vịnh đã viết: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cò xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Hay như một Thánh Vịnh khác cũng đã xác quyết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nể vất vả chỉ là uồng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Niềm xác tín này cũng đã được Chúa Giêsu thực hiện trong Tân Ước. Hẳn chúng ta còn nhớ trong tiệc cưới Cana, sự có mặt của Chúa Giêsu đã đem lại phép lạ đầu tiên, khiến nước lã biến thành rượu ngon, để đôi tân hôn không bị bẻ mặt với khách dự tiệc.
Cùng hoạt động với Chúa, chắc chắn sẽ thâu lượm được những thành quả tốt đẹp. Chính các tông đồ đã học được cái kinh nghiệm quý giá ấy. Đêm hôm đó, các ông ra khơi và thả lưới, vật lộn với sóng nước suốt cả một đêm, mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, ban sáng Chúa Giêsu hiện ra với các ông trên bờ biển và truyền cho các ông thả lưới, lập tức các ông đã có được một mẻ lưới lạ lùng. Lần khác, thuyền các ông gặp phong ba bão táp, các ông đã phải đánh thức Chúa Giêsu dậy, và với Chúa Giêsu lập tức sóng liền yên và biển liền lặng.
Và ngày hôm nay, hai môn đệ đang trên đường về làng Emmaus. Các ông bước đi mà cõi lòng thì ngập tràn một nỗi thất vọng đắng cay. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã hiện ra, đàm đạo với các ông và lòng các ông đã bừng lên ngọn lửa yêu mến và sau cùng, các ông đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh nơi quán trọ. Sau đó, các ông hối hả trở lại Giêrusalem, mừng vui kể lại sự việc cho các tông đồ được biết.
Chúng ta còn có thể kể ra những trường hợp khác nữa, để chứng tỏ rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu sẽ đem lại niềm an ủi và khích lệ, cũng như sẽ đem lại nguồn sức mạnh và can đảm để vượt qua những gian nan thử thách. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì Ngài có dư quyền năng để nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng có dư tình thương, để sẵn sàng ra tay trợ giúp cho chúng ta.
Tóm lại, cùng đi với Chúa, con người chúng ta sẽ không còn đơn côi, bản thân chúng ta sẽ vượt thắng được mọi hiểm nguy và cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
2. Có Chúa cùng đi.
Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.
Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vừa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.
Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.
Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yêu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.
Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đó, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.
Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?
3. Emmaus.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi và hăng hái.
Thực vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ông bước theo Chúa với tham vọng vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con đường tiến tới vinh quang.
Trái tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi. Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
4. Gặp Chúa giữa lòng đời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hành với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đề nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vậy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
* * *
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Người (Mt 25, 40)... ["Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận" (ICr 12, 27);
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17).
"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
- Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
- Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
- Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
[Anthony de Mello trong tác phẩm: "Như tiếng chim hót"]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy... Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chừng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ là một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
5. Chúa đã sống lại thật. Alleluia.
Nhưng các ông vẫn còn “nghi” hoài
Việc sống lại từ cõi chết là siêu nghiệm không chứng minh được từ những sự kiện cụ thể (lịch sử). Lúc ban đầu thì quá mới mẻ, xa lạ. Sự kiện mồ trống và vài lần hiện ra chớp nhoáng không chứng minh nổi, nên các tông đồ vẫn hoài nghi. Cho tới khi Chúa lên trới vẫn còn có người hoài nghi.
Ngày nay, sau hơn 20 thế kỷ, sự kiện xem ra còn xa vời hơn. Những cố gắng giải thích cũng vẫn còn để lại “hoài nghi”, vẫn lẩn quẩn trong não trạng tín điều với tiên kiến “Kinh Thánh phải được ứng nghiệm” hay phải được thực hiện, không có cách chứng minh nào thật sự thuyết phục. Phải hiểu đoạn Phúc Âm nầy của Luca thế nào? Trước hết chúng ta xem qua vài điểm chú giải.
- Chúa Giêsu đứng giữa các ông....các ông hoảng hồn tưởng là thấy ma: Cũng như chuyện nghe kể thấy “người chết hay ma hiện về” nên hoảng hốt là tự nhiên.
- Sao hoảng hốt, sao ngờ vực, nhìn chân tay Thầy đây, chính Thầy mà, rờ xem, ma đâu có xương thịt như Thầy đây, rồi người đưa tay chân cho các ông xem: Có lẽ không ai dám rờ. Sợ ma.
- Các ông chưa tin vì vui mừng quá và còn đang ngỡ ngàng: Vui mừng thì tin chứ. Ngỡ ngàng cũng tin chứ. Sao lại chưa tin? Vì tưởng thấy ma mà.
- Người hỏi “anh em có gì ăn không”? Các ông đưa cho người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Nhưng chợt đến chợt đi khi cửa vẫn đóng kín lại giống như ma. Và thật sự sống lại đâu cần ăn.
- Khi còn ở với anh em Thầy đã nói với anh em “Sách Luật Môsê, sách các tiên tri và các Thánhvị nh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”: Đức Giêsu đã thực hiện những gì được tiên báo.
- Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh: Là hoạt động của Đấng Phục Sinh. Đức Giêsu đã nói trước: Nguời sẽ ban Thánh Thần để đưa các môn đệ đến sự thật trọn vẹn, giúp các ông hiểu và nhớ những gì Ngưòi đã dạy. Và Người thực hiện bằng cách nầy.
- Phải nhân danh Người mà rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội: Là mục đích chính của sự hiện ra. Nhưng để các ông chịu đi rao giảng và biết rao giảng những gì thì trước hết các ông phải TIN VÀ NHỜ TIN MÀ NHẬN ĐUỢC QUYỀN NĂNG TỪ ĐẤNG PHỤC SINH thì phải làm cho các ông tin Người đã thực sự sống lại.
Điều chủ yếu là tin Chúa đã sống lại thật và vinh quang thì mới đủ thẩm quyền sai đi và quyền năng của Đấng Phục Sinh mới làm cho công việc các ông được sai làm có kết quả mỹ mãn. Các tông đồ có được điều nầy nên ngay lúc bắt đầu đã đạt kết quả lạ lùng. Sự việc đã xảy ra thế nào? Có lẽ cho đến gần đây sự việc mới được nhận biết rõ ràng. Các bằng chứng bên ngoài không bao giờ đủ chứng minh một sự kiện siêu nghiệm quá lớn lao, vượt xa mọi suy luận của lý trí con người. Phúc Âm không thể che dấu sự kiện “các ông vẫn hoài nghi, còn có người hoài nghi, các ông vẫn chưa tin”. Tôma nói khẳng khái “không tin”. Các ông khác thì ấm ớ, không dám nói ra.
Chỉ sự cảm nghiệm bản thân của mỗi người mới làm cho tin và cũng tuỳ sự cảm nghiệm ấy mà tin thế nào. Nó ở trong chính bản thân mình, là chính con người mình. Nó biến đổi con người mình cách lạ lùng thành mới hoàn toàn. Chẳng những chính bản thân nhận biết mà những người nghe rao giảng, được tiếp xúc với cũng nhận ra điều biến đổi ấy một cách thuyết phục “ngày đầu tiên rao giảng có ba ngàn người tin”. Quá ấn tượng. Là công trình của Đấng Phục Sinh. Chỉ những người cảm nghiệm được mới tin và tin theo như đã cảm nghiệm.
Bắt đầu là “lòng chúng ta đã chẳng nóng lên trong ta khi Người giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao”. Hai môn đệ đi về miền quê đã được Luca ghi lại như vậy. Tiếp theo Luca thêm “ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Đó là bắt đầu hoạt dộng của Đấng Phục Sinh nhờ Thánh Thần. Luca cũng cho biết thêm” Người ở lại bốn mươi ngày dạy dỗ các ông đủ mọi điều rồi mới lên trời. Mười ngày sau các ông hợp nhau cầu nguyện và Thánh Thần ngự xuống. Các ông mở cửa, xông ra gặp dân chúng và rao giảng Đức Giêsu mà các ông đã giết treo thập giá đã sống lại vinh quang. Chúng tôi làm chứng. Lời giảng thông minh, mạnh mẽ, can đảm. Mọi người ngạc nhiên và tin các ông vì các ông là bằng chứng
sống động trước mắt mọi người. Hôm đó có ba ngàn người tin và chịu phép rửa. Lòng tin vào Chúa sống lại chỉ được cảm nhận từ bên trong tâm hồn chứ không thể chứng minh từ bên ngoài. Các tông đồ trước hết vì các ông là những người được tuyển chọn, đã ở với Đức Giêsu từ ban đầu, được huấn luyện riêng cách đặc biệt, là chứng nhân nhản tiển mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu, được Đức Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần của Người cho và Thánh Thần đã tác động biến đổi các ông, không đột biến nhưng tiệm tiến trong “40 ngày + 10 ngày”.
Các tông đồ đã làm ra công thức để rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh như sau:"Người vẫn sống, đang hiện diện và đang hoat động bằng THÁNH THẦN". Không thấy Đấng Phục Sinh (dù có thấy cũng chỉ một thoáng) nhưng thấy hoạt động vô cùng ấn tượng của Thần Khí của Người. Là bằng chứng không thể chối bỏ vì rõ ràng trước mắt và tồn tại kiểm chứng được.
Với con người được biến đổi và cùng với tác động của Thần Khí các ông giải thích những gì Đức Giêsu đã làm và đã dạy và Kinh Thánh với công thức "Đức Giêsu là Tin Mừng, Người làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng và các sách Tân Ước khác cũng là Tin Mừng". Đức Giêsu là chìa khoá giải thích toàn bộ Kinh Thánh. Người đã thực hiện toàn bộ Kinh Thánh. Công thức thường dùng “để Kinh Thánh được nên trọn hoặc để Kinh Thánh được thực hiện” làm cho nghĩ rằng các thánh sữ lấy những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến Đức Giêsu ráp lại thánh những chuyện về Phục Sinh và cả về Giáng Sinh (không cần có xảy ra hay không ). Phải giải thích Kinh Thánh theo những gì Đức Giêsu đã thực hiện. Đức Giêsu là sự giải thích Kinh Thánh.
Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu đã chịu đóng đinh chết thập giá, đã sống lại với niềm tin không gì lay chuyển dù hình khổ hay sự chết và những điều kỳ lạ các ngài làm được nhân danh niềm tin ấy đã tạo ra một cộng đoàn tín hữu ngày càng lớn mạnh rất nhanh dù ngay khi còn trong trứng nước đã bị thế lực hùng hạnh gấp ngàn lần lả Quyền lực của đế quốc Rôma cũng không quật ngả nỗi mà còn ngược lại làm cho lan rộng và tăng số nhanh hơn. Đây còn là dấu lạ lớn làm bằng chứng hùng hồn là CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA. Vậy mà ngày nay chúng ta còn chưa tin sao?
6. Tình yêu - Tính vững bền và sự đòi hỏi
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu
“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).
Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chúa Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô - Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.
Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.
Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.
Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.
Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.
Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.
Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.
Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, từ ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.
7. Cho họ xem tay và cạnh sườn
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Giêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Giêsu Kitô.
I. Đức Giêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống
Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).
Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Thân phận con người, lúc này biết, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.
II. Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh
Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái. Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Đức Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Giêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.
III. Thật sự biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài
Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).
Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng. Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.
Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính đạo. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, khi Đức Giêsu cố gắng làm cho các tông đồ thấy Ngài đang sống thực sự bằng cách cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, hàm chứa điều gì?
2. Theo bạn, đức tin Kitô hữu hàm chứa gì? Tại sao lại gọi là ơn? Có gì quý hoặc được lợi gì khi tin Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam