Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1378779

CƠM BÁNH

Cơm bánh

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống – cuộc sống của thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn chúng ta đang khát khao lương thược nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.

Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơi, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 tivi, một toà lâu đài rộng lớn và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.

Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.

Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.

Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.

Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh – ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.

Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.

Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushikaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Nga (với tư cách là tù nhân chính trị). Bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được? Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.

Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.

Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao loại lương thực không thể hư nát – Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.

 

 

  1. Cám dỗ

Thánh Grêgôriô Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong năm, lòng đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng không hình thức nào quan trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính từ sự Phục sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ khác. Với tất cả nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên đó, mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa, chúng ta chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các Giám mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi người vì là đền thờ của Thiên Chúa phải được tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một. Hiểu như thế chúng ta mới ý thức được tính cách nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt thời gian mùa chay mà chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.

Mùa chay là thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích là hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng đường khổ nạn của Chúa Kitô. Những hy sinh khổ hạnh trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi bộ, cuộc hành trình trong 40 ngày của mùa chay được ví như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của dân Do thái trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ hành hạ mạt sát tàn nhẫn.

Trong thời gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn lại số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn vào một xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy dồi dào.

Quan điểm trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức tin cũng là một lời cầu khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Quan niệm đức tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật I Mùa chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu từ sông Giocđan trở về, sau đó Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây Chúa bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ quấy phá sau khi đã chịu phép rửa của thánh Gioan, tức là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.

Satan biết rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám dỗ Chúa hãy hành động theo uy quyền của một vị cứu thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần Satan xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” Các loại cám dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa đã bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân chúng để thử thách Chúa một lần sau cùng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn thì hãy tự cứu mình đi”.

Ma quỉ cám dỗ Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha đã tiền định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan điểm của một người trần gian được người ta hoan hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến lời Kinh Thánh có chép rằng, hãy minh chứng cho thế giới và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau đó Ngài đã chiến thắng ma quỉ là Ngài đã tin vào lời của Thiên Chúa Cha.

Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian này. Ma quỉ xúi giục chúng ta chọn nếp sống tiện nghi, dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi thánh ý của Thiên Chúa.

Trong mùa chay này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình để xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Phục sinh. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình biến đổi này.

 

 

  1. Cám dỗ

Cách đây vài năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống khắc khổ nghiêm ngặt. Người ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống rất lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị để lập những Đan viện, nhờ đó các Đan sĩ hưởng được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng vắng, nay lại hiện diện giữa chốn đô thị rực rỡ ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi đường hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?

Vị viện phụ của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:

Dòng vẫn trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn hoa đô hội này, bởi vì tại những địa điểm ồn ào, náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt mới của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để nêu một chứng từ, để cất lên một tiếng kêu thức tỉnh.

Nếu như ngày nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải nhọc công đi đâu xa, nhưng có thể đến bất kỳ một trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là địa điểm của thử thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải vượt qua hoang địa trước khi được vào đất hứa.

Phải chăng xã hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy dẫy tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ dội như bất kỳ một hoang địa nào thời xưa. Đây là nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi bộ mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi chiêu bài, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi thiên thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can trường và hèn nhát, ánh sáng và bóng tối, thánh thiện và tội lỗi, yêu thương và thù hận.

Cũng theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con người không thể sinh sống, tồn tại. Phải chăng thế giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn hổ mang, những dòng bọ cạp hiểm độc nguỵ trang dưới bộ mặt con người xinh đẹp, sang trọng, học thức, đạo đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện nghi vật chất của chúng ta hiện nay lại không là một vùng đất chết khi không còn tình người, không còn trái tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng, trao đổi, mua bán, vụ lợi, thực dụng, lạnh lùng và sơ cứng?

Phải chăng xã hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay lại không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh thần, mọi truyền thống đạo đức đều bị chôn vùi dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ nghĩa thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?

Phải chăng xã hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học kỹ thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng, hành vi sát nhân được trả lương, tuyên dương, dù nạn nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp nhìn thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt, người già yếu tật nguyền bị bạc đãi lãng quên, người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế, chính trị?

Nếu như ngày nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và cầu nguyện, Người có lẽ sẽ không còn gặp những thử thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính háo danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có lẽ phải đối đầu với trăm ngàn tình huống, trường phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng cơm manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế toàn cầu hoá, không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá mập, hùm beo làm mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn làm giàu cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh chóng nhất, dù có thể là vô luân nhất, dơ bẩn nhất như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người và rửa tiền.

Có thể trong bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp gấp trăm ngàn lần hơn và cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh xã hội văn minh, kỹ thuật cao, tinh xảo cực kỳ hôm nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống lại Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra ai đó trong cõi hoang mạc rừng rú của xã hội hôm nay để đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm cho Người.

Rồi có thể trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh rang để thở, để cầu nguyện, để thân thưa cùng Thiên Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố đức tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp đấu để chờ đợi cuộc tấn công khác như xưa nữa, mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp hưu lễ.

Có thể trong cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và sẽ mãi mãi chiến thắng, song còn những kẻ muốn thực sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh của thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn còn là một ẩn số, một thách đố. Vì thế, chúng ta cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin kính.

 

 

  1. Cám dỗ

Đoạn Tin Mừng kể việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.

Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo, xúi giục, thúc đẩy người ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay không buông tha ai, vì thế không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng. Bản chất của cơn cám dỗ là sự quyến rũ. Bất cứ cơn cám dỗ nào cũng đều mang một bộ mặt quyến rũ giả tạo, một sự hứa hẹn hão huyền, và một vị ngọt ngào lừa phỉnh. Thế nhưng những tính cách giả tạo, hão huyền và lừa phỉnh đã được che đậy tài tình bởi bàn tay bậc thầy là ma quỉ và cơn cám dỗ vẫn thành công như lần đầu nó đã thành công.

Thực vậy, ma quỷ đã thành công khi cám dỗ ông bà nguyên tổ bằng trái cấm. Trái cấm bao gồm nhiều vẻ quyến rũ: cung cấp cho thị giác một hình ảnh mê hoặc, tuyệt diệu, cung cấp cho thính giác những lời bảo đảm, thoả mãn, cung cấp cho khứu giác mùi vị mời mọc, quyến rũ, cung cấp cho xúc giác sự êm dịu, thích thú, nhất là khi đã biết và có trái cấm trong tay, rồi khi đưa lên ăn, lại có thêm sự tham gia và đồng tình của vị giác. Đến lúc này thì cái bẫy sập xuống, bộ mặt thật của cơn cám dỗ lộ ra nguyên hình và con người đã mở mắt nhìn ra sự thật.

Điều đáng buồn là qua cái nhìn ấy, con người nhận ra chính mình lại là nạn nhân tự nguyện, mình đã ngã vì chính sự yếu đuối cũng như sự dại dột của mình. Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm hoạ sẽ xảy đến.

Đàng khác, bên cạnh sự lừa đảo tinh vi của cơn cám dỗ và sự khôn ngoan quỉ quyệt của kẻ đứng sau cơn cám dỗ ấy, phải kể đến sự áo tưởng và vụng dại của con người. Chơi dao có ngày đứt tay; đùa với lửa có ngày gây nên hoả hoạn. Con người biết đó là những bài học và đã có biết bao nhiêu thí dụ “xương máu” để chứng minh. Thế nhưng vẫn còn không ít người sa lầy ngay trên bánh xe của người đi trước. Biết rõ đó là trái cấm, biết rõ đó là ma tuý, biết rõ đó là cơn cám dỗ, thế mà vẫn liều lĩnh mon men đến gần, hay chần chừ vì ảo tưởng: không sao đâu. Vì thế các nhà đạo đức cho rằng: tránh xa những dịp tội là tốt nhất, và nếu có phải giáp mặt thì không nên trao đổi hay thoả hiệp gì cả.

Ma quỉ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Tương tự như khi chúng ta muốn bẫy một con vật, chúng ta phải tìm hiểu xem con vật cần gì, muốn gì, thích gì, tìm gì. Sau đó chúng ta đặt thứ mồi đó vào bẫy, và con vật nào dại dột sẽ sa bẫy. Nếu chúng ta không biết con vật cần gì, thích gì thì chúng ta sẽ không thể bẫy được con vật ấy vì đã để vào bẫy những thứ không thích hợp. Chẳng hạn như khi câu cá, nếu chúng ta không biết rằng cá thích ăn giun hay trùng mà cứ để vào lưỡi câu thịt bò hay thức ăn khác thì rất ít khi câu được cá. Vì vậy, để đề phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới mức tối đa và tập luyện không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.

Chúng ta thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay nhu cầu căn bản nhất của con người là ăn uống để cám dỗ Chúa Giêsu. Ngài nhịn ăn đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn thiết và chính đáng. Nhưng Chúa đã làm chủ được nhu cầu thể xác và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỉ nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được thăng tiến. Rất nhiều người đã nhượng bộ ma quỉ để có một đời sống dễ dãi, giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy của chúng. Rồi ma quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke, ma tuý cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó. Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã làm chủ tính khoe khoang. Ngài không bị mắc bẫy.

Có thể nói ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần chúng ta đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước những quyến rũ, hấp dẫn của cám dỗ. Không nên quá tự tin vào khả năng của mình mà không cầu nguyện cùng Chúa. Mỗi khi bị cám dỗ chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều để xin ơn Chúa trợ giúp. Và nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta phải năn năn sám hối ngay.

 

home Mục lục Lưu trữ