Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1378697
CON CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG ?
Con có yêu mến Thầy không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.
Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).
Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)
Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)
Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)
Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).
Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.
Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.” Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5:2-4).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt. Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.” Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.
Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).
Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)
Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)
Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)
Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).
Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.
Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.” Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5:2-4).
Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt. Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.” Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?
34. Giáo hội phổ quát
"Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách".
Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồng của Giáo Hội. Phổ quát có nghĩa là chung, dành cho tất cả mọi người. Tuy vậy, không phải đến thời của Thánh Inhaxiô thì điều này mới được thánh nhân phát hiện ra. Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ đã nhận ra được sứ vụ phải loan báo Tin Mừng cho mọi loài. "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Nhưng chính xác hơn điều này đã thấy trước khi Đức Giêsu chịu nạn khi Ngài tiên báo là dân Do thái sẽ bị loại ra và các dân khác sẽ được hưởng ơn cứu độ." (Mt 8,12).
Đoạn Phúc Âm cuối cùng của Thánh Gioan cho chúng ta thêm một lời khẳng định về tính phổ quát của Giáo hội. Ta thấy nơi Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên là ở bờ hồ Giênêgiarét (x. Ga 5,1). Và bây giờ Chúa lại đến bờ hồ Tibêria để trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ hay nói đúng hơn là quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trong Kinh Thánh bờ hồ là nơi Đức Giêsu gặp gỡ và giảng dạy dân chúng. Nghĩa là Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ tiếp tục công việc của Ngài, nhưng hôm nay không phải chỉ ở bờ biển mà là mọi nơi trên trần gian này.
Theo trình thuật của Thánh Gioan thì Phêrô được xem như vai chính trong đoạn phúc âm này. Ông thả lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Rồi cũng chính ông nghe theo lời Đức Giêsu thả lưới bên phải mạng thuyền.. Ông cũng là người kéo mẻ cá đó vào bờ. Ông đã thắng đậm. Lưới đầy cá lớn. Một mẻ lưới mà từ lúc khởi nghiệp nghề biển đến nay ông chưa bao giờ có được. Chắc chắn Thánh Gioan có dụng gì sâu xa khi để cho 153 con cá xuất hiện trong mẻ lưới của Phêrô. Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay đã trình bày 3 gợi ý rất thú vị về con số 153 này.
Thứ nhất, theo Cyril ở Alexandria cho rằng số 153 có 3 điểm để lưu ý. Số 100 tiêu biểu cho sự trọn vẹn, đàn chiên 100 con thì mới tốt(). Hạt giống tốt cũng sinh 100. Đó là một sự đầy đủ của mọi dân tộc. Còn 50 là số dân Israel còn sót lại được thu tập về. Còn số 3 là Ba Ngôi mà mọi vật phải qui tụ.
Thứ hai, theo thánh Augustinô, số 10 là 10 điều răn, là lề luật của Chúa. 7 là 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 cộng 10 là 17. Mà tổng các số từ 1,2,3.... đến 17 là 153. Như vậy, 153 là tất cả những ai nhờ lề luật hoặc nhờ ân sủng thúc bách mà tìm về với Đức Giêsu.
Đơn giản nhất là cách lý giải của Thánh Jerome. 153 là tất cả mọi sắc tộc, mọi quốc gia sẽ được quy tụ về một chủ chăn là Đức Giêsu.
Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu thêm một hình ảnh rất sống động và cũng rất giàu ý nghĩa là chiếc lưới. Chiếc lưới dù bắt nhiều cá nhưng không rách. Tay lưới là Hội thánh. Hội thánh có đủ chỗ cho tất cả nhân loại trên địa cầu. Có bao nhiêu người thì Hội thánh cũng đủ rộng để ôm ấp, giữ gìn.
Trình bày như thế chắc là chúng ta cũng hiểu được dụng ý của Thánh Gioan một cách ít nhiều. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Hội thánh không còn là độc quyền của riêng người Do thái hay một nhóm dân đạo đức nào. Mà cho tất cả những ai tin và chịu phép rửa của Ngài, không có sự phân biệt màu da, ngôn ngữ, giới tính, sắc tộc. Ngày hôm nay Hội thánh vẫn giữ nguyên sứ vụ của mình như cách đây 2.000 năm. Đó là lãnh đạo nhân loại hướng về hạnh phúc thật trên thiêng đàng. Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. "Tính bao dung của Hội thánh cũng phổ quát như tình yêu thương của Đức Chúa Trời". Chính nhờ tính phổ quát đó mà giờ đây tôi được làm con cái Thiên Chúa, làm thành phần dân thánh của Người. Ý thức như thế để chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì đã cho ta tháp nhập vào thân thể thánh thiêng của Người. Nói như thánh Cypriano: "Không ai có thể có Thiên Chúa là cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ". Như vậy, dù thế nào thì chúng ta cũng phải có mẹ, để được sinh ra trong cuộc đời này. Cũng như không thể bước vào Nước Trời mà không qua Hội thánh. Qua đó, chúng ta cần hoà mình vào trong nhịp sống của Giáo hội, để trở nên con hiếu thảo, và góp cánh tay để Giáo hội được nới rộng ra cho nhiều anh chị em, để tính phổ quát của Giáo hội được biểu hiện thiết thực hơn.
Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồng của Giáo Hội. Phổ quát có nghĩa là chung, dành cho tất cả mọi người. Tuy vậy, không phải đến thời của Thánh Inhaxiô thì điều này mới được thánh nhân phát hiện ra. Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ đã nhận ra được sứ vụ phải loan báo Tin Mừng cho mọi loài. "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Nhưng chính xác hơn điều này đã thấy trước khi Đức Giêsu chịu nạn khi Ngài tiên báo là dân Do thái sẽ bị loại ra và các dân khác sẽ được hưởng ơn cứu độ." (Mt 8,12).
Đoạn Phúc Âm cuối cùng của Thánh Gioan cho chúng ta thêm một lời khẳng định về tính phổ quát của Giáo hội. Ta thấy nơi Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên là ở bờ hồ Giênêgiarét (x. Ga 5,1). Và bây giờ Chúa lại đến bờ hồ Tibêria để trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ hay nói đúng hơn là quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trong Kinh Thánh bờ hồ là nơi Đức Giêsu gặp gỡ và giảng dạy dân chúng. Nghĩa là Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ tiếp tục công việc của Ngài, nhưng hôm nay không phải chỉ ở bờ biển mà là mọi nơi trên trần gian này.
Theo trình thuật của Thánh Gioan thì Phêrô được xem như vai chính trong đoạn phúc âm này. Ông thả lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Rồi cũng chính ông nghe theo lời Đức Giêsu thả lưới bên phải mạng thuyền.. Ông cũng là người kéo mẻ cá đó vào bờ. Ông đã thắng đậm. Lưới đầy cá lớn. Một mẻ lưới mà từ lúc khởi nghiệp nghề biển đến nay ông chưa bao giờ có được. Chắc chắn Thánh Gioan có dụng gì sâu xa khi để cho 153 con cá xuất hiện trong mẻ lưới của Phêrô. Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay đã trình bày 3 gợi ý rất thú vị về con số 153 này.
Thứ nhất, theo Cyril ở Alexandria cho rằng số 153 có 3 điểm để lưu ý. Số 100 tiêu biểu cho sự trọn vẹn, đàn chiên 100 con thì mới tốt(). Hạt giống tốt cũng sinh 100. Đó là một sự đầy đủ của mọi dân tộc. Còn 50 là số dân Israel còn sót lại được thu tập về. Còn số 3 là Ba Ngôi mà mọi vật phải qui tụ.
Thứ hai, theo thánh Augustinô, số 10 là 10 điều răn, là lề luật của Chúa. 7 là 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 cộng 10 là 17. Mà tổng các số từ 1,2,3.... đến 17 là 153. Như vậy, 153 là tất cả những ai nhờ lề luật hoặc nhờ ân sủng thúc bách mà tìm về với Đức Giêsu.
Đơn giản nhất là cách lý giải của Thánh Jerome. 153 là tất cả mọi sắc tộc, mọi quốc gia sẽ được quy tụ về một chủ chăn là Đức Giêsu.
Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu thêm một hình ảnh rất sống động và cũng rất giàu ý nghĩa là chiếc lưới. Chiếc lưới dù bắt nhiều cá nhưng không rách. Tay lưới là Hội thánh. Hội thánh có đủ chỗ cho tất cả nhân loại trên địa cầu. Có bao nhiêu người thì Hội thánh cũng đủ rộng để ôm ấp, giữ gìn.
Trình bày như thế chắc là chúng ta cũng hiểu được dụng ý của Thánh Gioan một cách ít nhiều. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Hội thánh không còn là độc quyền của riêng người Do thái hay một nhóm dân đạo đức nào. Mà cho tất cả những ai tin và chịu phép rửa của Ngài, không có sự phân biệt màu da, ngôn ngữ, giới tính, sắc tộc. Ngày hôm nay Hội thánh vẫn giữ nguyên sứ vụ của mình như cách đây 2.000 năm. Đó là lãnh đạo nhân loại hướng về hạnh phúc thật trên thiêng đàng. Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. "Tính bao dung của Hội thánh cũng phổ quát như tình yêu thương của Đức Chúa Trời". Chính nhờ tính phổ quát đó mà giờ đây tôi được làm con cái Thiên Chúa, làm thành phần dân thánh của Người. Ý thức như thế để chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì đã cho ta tháp nhập vào thân thể thánh thiêng của Người. Nói như thánh Cypriano: "Không ai có thể có Thiên Chúa là cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ". Như vậy, dù thế nào thì chúng ta cũng phải có mẹ, để được sinh ra trong cuộc đời này. Cũng như không thể bước vào Nước Trời mà không qua Hội thánh. Qua đó, chúng ta cần hoà mình vào trong nhịp sống của Giáo hội, để trở nên con hiếu thảo, và góp cánh tay để Giáo hội được nới rộng ra cho nhiều anh chị em, để tính phổ quát của Giáo hội được biểu hiện thiết thực hơn.
35. Bữa ăn trên bờ biển
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội.
Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người đang chờ mình, gọi mình.
Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.
Nhưng, thưa anh chị em,
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh chị em thân mến,
Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.
Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội.
Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người đang chờ mình, gọi mình.
Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.
Nhưng, thưa anh chị em,
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh chị em thân mến,
Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.
Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
36. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
ÐƯỢC BIẾN ÐỔI NHỜ VÂNG LỜI CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
Khi hướng về tương lai, con người ta hay đặt hy vọng của mình vào điều gì đó hay một ai đó. Ðó là động cơ thúc đẩy con người ta thêm phấn khởi để dấn bước. Tuy nhiên, nếu như đột nhiên người đó hay điều đó bỗng nhiên mất đi thì phần nhiều sẽ làm cho người hy vọng sẽ cảm thấy mất phương hướng. Ðang lúc mất phương hướng như thế, nếu họ may mắn gặp được một ai đó hay điều gì đó tốt hơn chắc chắn sẽ làm cho cuộc đời họ được biến đổi.
Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị treo trên cây thánh giá thì các Tông đồ như những con người mất cả phương hướng sống. Mặc dù, các ông được Chúa Giêsu kêu gọi đi theo nhưng trong các ông vẫn còn những tính toán theo kiểu người phàm. Các ông hy vọng mình sẽ được đổi đời. Bất ngờ, Chúa Giêsu bị người ta bắt và đem đi đóng đinh một cách khổ nhục trên cây thánh giá. Thử hỏi làm sao các ông có thể bình tĩnh cho được.
Một buổi sáng nọ, các ông quyết định trở lại nghề nghiệp của mình trước kia. Ông Phêrô đã gợi ý: "Tôi đi đánh cá đây." (Ga 21, 3b). Với gợi ý đó, các Tông đồ còn lại đồng thanh hưởng ứng: "Chúng tôi cùng đi với anh." (Ga 21, 3c). Dường như trong tâm trạng buồn chán thất vọng nên suốt đêm các ông hầu như không bắt được một con cá nào.
Chính lúc ấy Chúa Giêsu Phục sinh xuất hiện: "Người nói với các ông: Này các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." (Ga 21, 5 - 6). Theo lẽ thông thường các ông có quyền không làm theo vì đã suốt đêm rồi chẳng bắt được con nào. Dầu vậy, các ông vẫn làm theo: "Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá" (Ga 21, 6b). Ðến lúc này các ông mới nhận ra người kêu mình chính là Chúa Giêsu Phục sinh: "Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó!. Vừa nghe nói , Chúa đó!, ông Si-môn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển". (Ga 21, 7)
Ðây là cử chỉ khiêm tốn thật lòng của Phêrô. Từ một con người hung hăng đến chối Thầy giờ đây không còn nữa. Bây giờ Phêrô đã nhìn nhận được thân phận của mình. Thái độ khiêm tốn này chính nhờ ông tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh. Từ đây về sau ông không còn mơ ước được làm người người lớn theo kiểu người phàm nữa.
Chúa Giêsu đã biến đổi ông để sau này ông trở thành người lớn theo cách dạy của Chúa Giêsu. Ðó là hiến mình phục vụ Chúa và anh chị em. Mỗi người tín hữu chúng ta cũng được mời gọi tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh trong đời sống hằng ngày. Nhờ đó, chắc chắn đời sống của chúng ta sẽ được biến đổi mỗi ngày tốt hơn.
Khi hướng về tương lai, con người ta hay đặt hy vọng của mình vào điều gì đó hay một ai đó. Ðó là động cơ thúc đẩy con người ta thêm phấn khởi để dấn bước. Tuy nhiên, nếu như đột nhiên người đó hay điều đó bỗng nhiên mất đi thì phần nhiều sẽ làm cho người hy vọng sẽ cảm thấy mất phương hướng. Ðang lúc mất phương hướng như thế, nếu họ may mắn gặp được một ai đó hay điều gì đó tốt hơn chắc chắn sẽ làm cho cuộc đời họ được biến đổi.
Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị treo trên cây thánh giá thì các Tông đồ như những con người mất cả phương hướng sống. Mặc dù, các ông được Chúa Giêsu kêu gọi đi theo nhưng trong các ông vẫn còn những tính toán theo kiểu người phàm. Các ông hy vọng mình sẽ được đổi đời. Bất ngờ, Chúa Giêsu bị người ta bắt và đem đi đóng đinh một cách khổ nhục trên cây thánh giá. Thử hỏi làm sao các ông có thể bình tĩnh cho được.
Một buổi sáng nọ, các ông quyết định trở lại nghề nghiệp của mình trước kia. Ông Phêrô đã gợi ý: "Tôi đi đánh cá đây." (Ga 21, 3b). Với gợi ý đó, các Tông đồ còn lại đồng thanh hưởng ứng: "Chúng tôi cùng đi với anh." (Ga 21, 3c). Dường như trong tâm trạng buồn chán thất vọng nên suốt đêm các ông hầu như không bắt được một con cá nào.
Chính lúc ấy Chúa Giêsu Phục sinh xuất hiện: "Người nói với các ông: Này các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." (Ga 21, 5 - 6). Theo lẽ thông thường các ông có quyền không làm theo vì đã suốt đêm rồi chẳng bắt được con nào. Dầu vậy, các ông vẫn làm theo: "Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá" (Ga 21, 6b). Ðến lúc này các ông mới nhận ra người kêu mình chính là Chúa Giêsu Phục sinh: "Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó!. Vừa nghe nói , Chúa đó!, ông Si-môn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển". (Ga 21, 7)
Ðây là cử chỉ khiêm tốn thật lòng của Phêrô. Từ một con người hung hăng đến chối Thầy giờ đây không còn nữa. Bây giờ Phêrô đã nhìn nhận được thân phận của mình. Thái độ khiêm tốn này chính nhờ ông tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh. Từ đây về sau ông không còn mơ ước được làm người người lớn theo kiểu người phàm nữa.
Chúa Giêsu đã biến đổi ông để sau này ông trở thành người lớn theo cách dạy của Chúa Giêsu. Ðó là hiến mình phục vụ Chúa và anh chị em. Mỗi người tín hữu chúng ta cũng được mời gọi tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh trong đời sống hằng ngày. Nhờ đó, chắc chắn đời sống của chúng ta sẽ được biến đổi mỗi ngày tốt hơn.
37. Bảo đảm cho sự chân truyền – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên đoán biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Đức Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.
1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động, Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2) Những lời Thày nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa chọn một số người “lập thành nhóm các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân 19). “Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta” (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên đoán biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Đức Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.
1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động, Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2) Những lời Thày nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa chọn một số người “lập thành nhóm các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân 19). “Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta” (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.
38. Mẻ lưới của Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: "Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia".
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).
Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển" (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: "Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa". Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em" (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l'Évangile, no 24)
Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: "Tôi đi đánh cá đây"(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: "Bây giờ họ không có gì khác để làm".
Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau "khổ đau" của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.
Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở "phía bên kia" thuyền. Tại sao lại ‘bên kia? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.
Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: "Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia".
Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).
Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển" (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: "Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa". Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em" (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l'Évangile, no 24)
Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.
Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: "Tôi đi đánh cá đây"(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: "Bây giờ họ không có gì khác để làm".
Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau "khổ đau" của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.
Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở "phía bên kia" thuyền. Tại sao lại ‘bên kia? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.
39. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Cha mẹ nào không yêu thương con, nhưng người làm con thì không ai mà không làm cho cha mẹ mình phải phiền lòng, nhiều khi còn làm cho các ngài phải đau đớn vất vả. Còn có những người con, suốt cả một đời không làm được một việc gì xứng đáng để gọi là đền đáp công ơn.
Nhưng một khi, nếu người con đó biết quay trở về với tình thương của cha mẹ, thì mọi lỗi lầm trước kia dường như không còn tồn tại nữa. Tình thương yêu được biểu hiện qua hành động rất cụ thể, qua sự lo lắng chăm sóc. Tình thương của cha mẹ có phần nào đó không thể giải thích được, dường như có một chút gì đó hơi mù quáng nếu đem cân đo đong đếm bằng khoa học. Từ ngàn đời vẫn thế. Cha mẹ vẫn thương yêu, vẫn tự hào đặt niềm tin vào con của mình. Còn những người con, có những người cũng biết cách đền đáp cho xứng đáng, cũng có những người dường như không nhận ra được tình thương yêu đó.
Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, Ngài luôn yêu thương và thành tín. Các Tông Đồ đã từng theo Chúa Giêsu, đã được dạy dỗ, đã từng được yêu thương. Giờ đây Các ông đang làm gì? Các ông đang trở lại con đường cũ, con đường mà Chúa Giêsu đã kêu gọi các ông từ bỏ để theo Ngài. Các ông đang trở về với nghề của đêm tối. Nhưng cho dù các ông có đầy đủ kinh nghiệm, nếu không có Chúa bên cạnh, với những sức lực và tài năng cùng với kinh nghiệm, cũng không ích lợi gì.
Một phép lạ được thực hiện. Một mẻ cá bất ngờ. Nếu các ông không biết lắng nghe, thì phép lạ đã không được thực hiện. Nhưng điều quang trọng hơn là các ông đã nhận ra được Người đã từng yêu thương mình, đã từng kêu gọi mình đỗi đời. Các ông đã biết quay trở về. Các ông đã nhận được sự triều mến, thương yêu chăm sóc lo lắng qua thức ăn đã dọn sẵn.
Các ông đã biết cách đền đáp tình yêu thương bao la đó, các ông không còn trở lại con đường của ngày xưa nữa, mà bước theo con đường mà Đấng yêu thương kêu gọi và dẫn dắt.
Chính vì các ngài đã biết cách đền đáp tình yêu thương cho xứng đáng mà hôm nay, chúng ta những người công giáo, những người ngồi trong nhà thờ này cũng nhận biết được tình yêu thương đó. Chúng ta cũng từng được kêu gọi bước theo Chúa, từng sống với Ngài, được giảng dạy, được hưởng những hồng ân. Chúng ta cũng có những quyết tâm rất tốt đẹp để sống xứng đáng hơn. Nhưng cũng như các Tông Đồ, chúng ta cũng từng trở lại con đường cũ, con đường riêng tư, con đường mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta từ bỏ.
Chúng ta lần mò trong đêm tối của những toan tính không ngay chính, của những ước vọng không tốt đẹp, của những việc làm không chấp nhận được. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng hiện diện để kêu mời, để chỉ dạy qua những biến cố, những con người. Nhưng chúng ta có như các tông đồ, có nhận ra Chúa, có dám hăng hái, bất chấp dòng nước lạnh của cuộc đời ngăng cản mà quay trở về. Nếu chúng ta làm được như thế, thì phép lạ đã xảy ra, cuộc đời chúng ta đã được thay đỗi. Chúng ta nhận ra được sự thương yêu triều mến qua những hồng ân trong suốt cuộc đời.
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy tư, xem mình là người con biết cách đền đáp tình thương yêu, hay là người con luôn làm phiền lòng cha mẹ. Cứ nhìn vào đời sống đã qua và trong hiện tại.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh, để biết trở về với tình yêu thương bao la của Chúa.
Cha mẹ nào không yêu thương con, nhưng người làm con thì không ai mà không làm cho cha mẹ mình phải phiền lòng, nhiều khi còn làm cho các ngài phải đau đớn vất vả. Còn có những người con, suốt cả một đời không làm được một việc gì xứng đáng để gọi là đền đáp công ơn.
Nhưng một khi, nếu người con đó biết quay trở về với tình thương của cha mẹ, thì mọi lỗi lầm trước kia dường như không còn tồn tại nữa. Tình thương yêu được biểu hiện qua hành động rất cụ thể, qua sự lo lắng chăm sóc. Tình thương của cha mẹ có phần nào đó không thể giải thích được, dường như có một chút gì đó hơi mù quáng nếu đem cân đo đong đếm bằng khoa học. Từ ngàn đời vẫn thế. Cha mẹ vẫn thương yêu, vẫn tự hào đặt niềm tin vào con của mình. Còn những người con, có những người cũng biết cách đền đáp cho xứng đáng, cũng có những người dường như không nhận ra được tình thương yêu đó.
Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, Ngài luôn yêu thương và thành tín. Các Tông Đồ đã từng theo Chúa Giêsu, đã được dạy dỗ, đã từng được yêu thương. Giờ đây Các ông đang làm gì? Các ông đang trở lại con đường cũ, con đường mà Chúa Giêsu đã kêu gọi các ông từ bỏ để theo Ngài. Các ông đang trở về với nghề của đêm tối. Nhưng cho dù các ông có đầy đủ kinh nghiệm, nếu không có Chúa bên cạnh, với những sức lực và tài năng cùng với kinh nghiệm, cũng không ích lợi gì.
Một phép lạ được thực hiện. Một mẻ cá bất ngờ. Nếu các ông không biết lắng nghe, thì phép lạ đã không được thực hiện. Nhưng điều quang trọng hơn là các ông đã nhận ra được Người đã từng yêu thương mình, đã từng kêu gọi mình đỗi đời. Các ông đã biết quay trở về. Các ông đã nhận được sự triều mến, thương yêu chăm sóc lo lắng qua thức ăn đã dọn sẵn.
Các ông đã biết cách đền đáp tình yêu thương bao la đó, các ông không còn trở lại con đường của ngày xưa nữa, mà bước theo con đường mà Đấng yêu thương kêu gọi và dẫn dắt.
Chính vì các ngài đã biết cách đền đáp tình yêu thương cho xứng đáng mà hôm nay, chúng ta những người công giáo, những người ngồi trong nhà thờ này cũng nhận biết được tình yêu thương đó. Chúng ta cũng từng được kêu gọi bước theo Chúa, từng sống với Ngài, được giảng dạy, được hưởng những hồng ân. Chúng ta cũng có những quyết tâm rất tốt đẹp để sống xứng đáng hơn. Nhưng cũng như các Tông Đồ, chúng ta cũng từng trở lại con đường cũ, con đường riêng tư, con đường mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta từ bỏ.
Chúng ta lần mò trong đêm tối của những toan tính không ngay chính, của những ước vọng không tốt đẹp, của những việc làm không chấp nhận được. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng hiện diện để kêu mời, để chỉ dạy qua những biến cố, những con người. Nhưng chúng ta có như các tông đồ, có nhận ra Chúa, có dám hăng hái, bất chấp dòng nước lạnh của cuộc đời ngăng cản mà quay trở về. Nếu chúng ta làm được như thế, thì phép lạ đã xảy ra, cuộc đời chúng ta đã được thay đỗi. Chúng ta nhận ra được sự thương yêu triều mến qua những hồng ân trong suốt cuộc đời.
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy tư, xem mình là người con biết cách đền đáp tình thương yêu, hay là người con luôn làm phiền lòng cha mẹ. Cứ nhìn vào đời sống đã qua và trong hiện tại.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh, để biết trở về với tình yêu thương bao la của Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam