Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1379205

CON NGƯỜI MỚI

Con người mới – R. Gutzwiller

Tinh thần mới, nội tâm quan trọng hơn là chức bậc, phẩm trật và hơn cả hình thức tổ chức bề ngoài. Tinh thần ấy được phác hoạ trong bài giảng trên núi, Thánh Luca viết cho những người ngoại giáo, không phải cho những người Do thái. Chính vì thế, những gì có tính cách đặc biệt Do thái đều bị bỏ đi và tất cả bài giảng chỉ bằng một phần ba bài giảng của Thánh Mathêu.

Công cuộc canh tân mà Chúa Giêsu đem đến đang bắt đầu nơi Ngài và nhờ Ngài, bây giờ đây, Ngài thấy nó trở nên sung mãn hoàn toàn: chính lúc con người chết, là đi vào cuộc sống mới, đối với toàn thể nhân loại, đó là ngày cùng tận được đi vào trời mới đất mới. Suốt trong sứ điệp của vị Thiên Chúa rao giảng, cái nhìn vẫn cố định trên cái viễn tượng tối cao đó: bài giảng trên núi chỉ có thể hiểu theo nghĩa này.

DIỄN TỪ.

Đối lại bốn lời chúc dữ là bốn lời chúc lành.

‘Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, khốn cho các ngươi những kẻ giàu có…’. Đối với Chúa Kitô, đây không phải là diễn từ mang tính chất xã hội, một cách phân phối của cải, một cuộc cách mạng kinh tế, nhưng là một quan điểm về sự đảo lộn có tính cách quyết định, của cuộc cách mạng chân thật và sâu sắc nhất, của sự đảo lộn tuyệt đối trong đó những kẻ trước hết sẽ nên sau hết và những kẻ sau hết sẽ nên trước hết.

Lúc đó sẽ xảy ra là những ai đang sống nghèo khổ trong thế giới hiện thời sẽ được gìn giữ để khỏi sa vào lưới thế gian, họ đã luôn nhắm vào vũ trụ tương lai, vào nước Thiên Chúa. Người nghèo khó không bị của cải trần gian đè lấp: vì thế họ hy vọng với lòng trông cậy những ngày tươi sáng hơn. Người giàu trái lại coi thế này như là nơi vĩnh cửu. Họ tìm thấy ở đó những thoả mãn những điều họ ao ước. ‘Ở đó, ‘một ngày kia’, đó là những viễn tượng họ không nghĩ đến, và cũng chẳng nghĩ đến nữa: đó là cái họ sợ hãi và trốn chạy.

Nhưng dầu sao, nước Thiên Chúa vẫn sẽ đến, cũng vậy khốn cho ai ít ao ước nó, mà lại muốn xa tránh nó.

‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát… Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ’. Người đói khát là người cảm thấy có nhu cầu. Họ chờ mong với lòng ao ước điều ngày hôm nay họ không có được. Còn kẻ no nê, thoả mãn với chính mình lại muốn làm cho giây phút hiện tại này thành vĩnh cửu và từ chối sự vĩnh cửu thực sự. Họ đáng cái mà người ta ca thán khi giờ nước Thiên Chúa đến: đó là lời chúc dữ chứ không phải là lời chúc phúc.

‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc… khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười’. Ở đây nữa, từ ngữ, ‘bây giờ’ ‘hiện giờ’ là chính yếu. Những kẻ khóc lóc là những người thấy thất vọng với cái thế gian này. Họ chỉ thấy những sự khó chịu, đau khổ. Do đó họ hướng về tương lai, hy vọng có cái gì khác lạ và mới mẻ mà Chúa Kitô mang đến.

Trái lại những kẻ cười nói, vui thú trong những sung sướng dưới thế này, họ hài lòng với tính chất hời hợt của thế gian này, không muốn tin rằng thế gian này là cái chóng qua. Đến lúc thay đổi, vui cười của họ sẽ biến thành than khóc; ngay từ bây giờ họ đã bị nguyền rủa.

‘Phúc cho các ngươi nếu vì Con Người mà thiên hạ oán ghét, trục xuất và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương… Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi’.

Hai nhóm đó tạo thành một tương phản thật kêu và ít thấy có hoà đồng hỗ tương. Những kẻ nghèo khó, đói khát, những kẻ khóc lóc, bị đuổi bắt, bị những người no nê, giàu có, vui cười… ghét ghen và khinh dể. Nhưng có Chúa Kitô ở bên họ, Ngài là Đấng giảng lời quyền năng được dân chúng ca tụng, và Ngài sẽ lên tiếng khen họ.

Đó là một thái độ lạ lùng. Đối với Ngài, biến đổi thế gian này chưa đủ. Ngài còn mang đến một cái gì hoàn toàn khác hẳn, tuyệt đối mới mẻ: đó là nước Thiên Chúa.

Như thế, sứ điệp Ngài giảng không phải là chuyện cải biến thế giới hiện thời, một sự cao thượng hoá con người, kéo dài luân lý nhân loại. Và như vậy có thể giải thích được sức mạnh và quyền năng chưa hề nghe nói về vị giảng thuyết và về giáo huấn của Ngài.

Kẻ nghe lời Ngài sống bằng tương lai và xây tất cả hy vọng của mình trên sự đổi thay bao la đã được Chúa khai mở và một ngày kia sẽ đạt được tầm mức sung mãn.

 

30. Chú giải của Fiches Dominicales

TÌM ĐÂU RA HẠNH PHÚC THẬT?

LÒNG NGƯỜI CHỈ TOẠI NGUYỆN KHI BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Đường dẫn đến hạnh phúc thật

Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một nguồn, nhưng mỗi người lại khai thác dữ liệu một cách độc đáo, khiến cho hai bản viết, bên cạnh những nét tương đồng rõ rệt, vẫn có những dị biệt tỏ tường về nội dung và con số các mối phúc cũng như về cấu trúc, thể văn và ý hướng.

– Nội dung các mối phúc theo thánh Luca rất khác với nội dung Bài giảng trên Núi của thánh Mátthêu.

Đức Giêsu lên núi, nơi “ Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”, trước khi chọn lấy mười hai ông trong số các môn đệ, mà người gọi họ là “tông đồ” nghĩa là kẻ được sai đi. Giờ đây Người đóng vai một Môsê mới, “xuống núi”, mang theo sứ điệp của Thiên Chúa và “dừng lại ở một chỗ đất bằng”, đối diện với “đông đảo môn đệ của Người” là đoàn lũ “dân chúng”, tiêu biểu cho những con người đến từ “khắp miền Giuđê, Giêrusalem” lẫn lộn với những người từ những miền dân ngoại thuộc “miền duyên hải Tyrô là Siđôn”. Những lời Người sắp tuyên bố là các mối phúc, được dành cho hết mọi người, vì chỉ có mình Người mới có thể thoả mãn được khát vọng hạnh phúc của con người. Cộng đoàn các môn đệ của Người, một khi đã lãnh hội và sống các mối phúc ấy sẽ phải làm chứng về các mối phúc ấy cho mọi người.

– Con số các mối phúc trong Matthêu là chín. Còn trong Luca chỉ có bốn. Điểm khác biệt nữa là: Luca cho thêm vào bốn “mối hoạ” đặt rất song hành với bốn “mối phúc”; đây không phải là những lời nguyền rủa, mà chỉ là những lời thiết tha kêu gọi những “người bất hạnh” ăn năn hối cải khi họ lỡ bước lao mình vào con đường sa đoạ.

Sau cùng, thể văn và ý hướng của các mối phúc này đều rất khác nhau. Thánh Matthêu trình bày các mối phúc ấy ở ngôi thứ ba số nhiều và nhắm những thái độ nội tâm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó….” Còn Luca lại diễn tả ở ngôi thứ hai số nhiều và chỉ ra những loại người trong xã hội, mà “bây giờ” đang thực sự phải nghèo khổ, phải đói, phải khóc bị nguyền rủa hay bị ngược đãi: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…” Nếu mối phúc thứ hai hay thứ ba loan báo một sự đảo ngược hoàn cảnh hoàn toàn thì tuyệt nhiên không phải có ý khuyến khích đương sự chịu đựng, luồn cúi vì hy vọng ở thế giới bên kia. Mối phúc thứ nhất và cuối cùng nói ở thì hiện tại: “Nước Thiên Chúa là của anh em”, “vì này đây, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”; những mối phúc ấy tỏ cho biết rằng triều đại cứu thế đang được khai mở trong con người Đức Giêsu.

  1. Meynet viết: “Nước Thiên Chúa, không phải đợi tới ngày tận thế, Nước ấy đang ở đây ngay hôm nay cho ai biết chọn lựa nước ấy… Cũng giống như Nước Chúa, thiên đàng (trời) không phải đợi mai sau mới có, thiên đàng là đây, ngay bây giờ, chứ không phải tìm kiếm ở nơi đâu khác; thiên đàng thuộc về một trật tự khác, trật tự của Thiên Chúa chứ không phải của loài người” (“L’evangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ”, Cerf, trg 79).
  2. Theo chân Đức Giêsu:

“Các mối phúc-mối hoạ” là mạc khải có tính tiên tri thúc giục ta hoán cải những quan niệm phàm trần của ta về hạnh phúc, nghèo đói và than khóc, theo ánh sáng của mầu nhiệm được tỏ ra ở đây: mầu nhiệm về Thiên Chúa muốn tỏ mình cho người ta chiêm ngưỡng Người trong mầu nhiệm Đức Giêsu, nơi Người mầu nhiệm về con người được soi sáng.

– Ở đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm về Thiên Chúa đầy lòng xót thương những kẻ nghèo khổ. Ph. Bossuyt và J. Radermakers còn giải thích: Thực vậy, những người này, được tuyên bố là “người hạnh phúc”, bởi vì Thiên Chúa quan tâm tới họ. Vì người quan tâm tới họ, không phải vì họ có công trạng gì, nhưng vì chính hoàn cảnh của họ: nghèo khổ, phải đói, phải khóc, bị ngược đãi… Đây chính là mầu nhiệm khơi nguồn cho hiến chương Nước Trời vậy (Sđd, trg 241)

– Ở đây chúng ta cũng được đưa vào chính trung tâm mầu niệm Đức Giêsu mà ngay từ bài giảng khai mạc ở hội đường Nadarét Người đã hé mở cho thấy trước số phận Con người sẽ phải chịu: số phận một người bị hiểu lầm, bị chối bỏ.

Hai tác giả trên tiếp tục: “Vì vậy, chân lý của Thiên Chúa về các mối phúc, không tỏ ra tách biệt với số phận của con người. Hơn nữa chân lý ấy còn có một nền tảng vững chắc là tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa như vẫn được biểu lộ ra trong con người Đức Giêsu. Những kẻ nghèo khổ, đói khát, khóc than là những người có phúc, bởi lẽ, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã hành động quyết liệt để bênh vực họ, khi con Người sống lại từ trong kẻ chết. Người là đang thực hiện niềm hy vọng của họ” (Sđd, trg 242).

– Sau cùng, người ta thấy vén lên ở đây mầu nhiệm về con người, một sinh vật có một trang sử để sống, được kêu gọi để tự do lựa chọn, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Chúa được bày tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tóm lại là dám nối gót theo chân Đức Giêsu chết và phục sinh.

BÀI ĐỌC THÊM.

  1. “Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”

Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống”. Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là “Người môn đệ của Đường”. Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”.

Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.

  1. “Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”

Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.

Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.

Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ “bước đi với Chúa”. Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có… Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.

Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.

Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức “Thiên Chúa là tình Yêu”, thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người”.

Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).

Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.

Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.

Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.

Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.

Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.

 

31. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

  1. Ở đây Chúa Giêsu khích lệ và an ủi các người nghèo khó. Trong suốt lịch sử của mình, Israel đã từng kinh nghiệm rằng Thiên Chúa luôn quan tâm đến kẻ nghèo hèn, người bị áp bức nếu họ trông cậy nơi Ngài. Trong thời nô lệ (ở Ai cập và lưu đày ở Babilone, Israel đã gặp nghèo đói và bị kềm kẹp, Thiên Chúa đã lưu tâm đến dân Ngài: “Chúa an ủi dân Ngài và xót thương những người cùng khốn” (Is 49,13). Thiên Chúa hướng lòng về những người nghèo đói, khổ sở lầm than “Lạy Chúa, xin hãy nghiêng tai về bên con, xin nhậm lời con; vì con nghèo nàn khổ sở” (Tv 86,1). Thiên Chúa cũng hành động tương tự như thế trong thời gian cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo. Tin mừng được rao giảng cho người nghèo (4,8). Do đó, người nghèo thật hạnh phúc vì họ là những người đầu tiên được Chúa Cha quan phòng săn sóc và được phúc âm Chúa Kitô hướng dẫn dưỡng nuôi.
  2. Tình trạng sung sướng hạnh phúc Chúa Giêsu công bố không phải là khổ sở, thiếu ăn, đói khát, dốt nát, chậm tiến, ăn mày. Trái lại, Chúa Giêsu xem các cảnh huống đó như là những cảnh huống làm con người thoái hoá, do đó phải sớm gạt bỏ: đến ngày phán xét chung thẩm, chúng ta sẽ bị phán xét theo cách thế chúng ta đã làm hầu xoa dịu các nỗi thống khổ của nhân loại (x.Mt 25), phù hợp với các giáo huấn và gương sáng của giáo hội qua mọi thời đại. Được xem là hạnh phúc, tình trạng của người dù nghèo nhưng luôn tín thác vào bàn tay quan phòng của Chúa Cha (dĩ nhiên là họ hết sức cố gắng làm việc), tình trạng của người luôn ý thức mình là con Thiên Chúa. Tóm lại, điều làm người ta dễ dàng đón nhận Nước trời, chính là sự tự do của người nghèo khó: chịu đựng các cảnh thăng trầm, bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống mai ngày mới có thể thoả mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của họ.
  3. Những người bị bắt bớ vì đạo (theo dõi, giam tù, chèn ép, thiếu thốn mọi sự) và những người nhờ quan phòng tìm được tự do thường làm chứng rằng trong đời sống họ không có lúc nào cảm thấy được an ủi, bình thản và vui sướng cho bằng những lúc họ bị khốn khổ cùng cực. Có biết bao vị tử đạo đã vui hát khi bị giết. Hạnh phúc của người bị bách hại không phải là một hạnh phúc “bánh vẽ”. Ngay từ đời này, Thiên Chúa đã ban hạnh phúc cho những ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì Ngài.
  4. Không nên phàn nàn những người có tiếng tốt là thanh liêm ngay thật, thích vụ tha nhân. Nhưng những kẻ mà Chúa Giêsu chúc dữ đó là những kẻ giàu sang được người ta nịnh bợ, tâng bốc chỉ vì họ giàu sang, quyền thế, nhiều áp lực… Họ giống các tiên tri giả, chỉ biết nói lời đường mật, nịnh hót, trấn an dân Do thái, trong lúc đang theo đuổi các ngẫu thần (x. Is 30,9tt; Giêr 23,17tt)
  5. Ngay cả môn đệ, tín hữu, những người sống trong giáo hội cũng phải nghe lời chúc phúc và chúc dữ đó như thể được áp dụng cho chính mình. Phải tự vấn xem mình có sợ vì bị chúc dữ hay không. Phải luôn luôn lượng giá đúng các lời tuyên bố ngắn ngủi của Chúa Giêsu. Những lời tuyên bố đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài con người xây lên cho mình, đó là hoàng hôn, là lời cáo chung của mọi thần tượng ta tin hằng tin tưởng. Các lời chúc phúc và chúc dữ mở cửa nước Thiên Chúa, một nước trong đó ta sẽ được mọi thứ mà của cải đời này không thể cung cấp nhưng chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng khi Ngài bắt đầu thống trị.

 

32. Tinh thần của Chúa

Ngày kia, các nhà truyền giáo đến hỏi ý kiến ông Gandhi xem phải làm gì để những người theo Ấn Độ giáo có thể chấp nhận bài giảng trên núi của Chúa Giêsu về tám mối phúc thật. Ông Gandhi đã trả lời:

– Các ông hãy suy nghĩ về bí quyết của những bông hồng. Mọi người đều yêu thích chúng, bởi vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc tươi thắm, chúng còn toả lan một mùi hương thoang thoảng và tuyệt vời. Vậy các ông cũng hãy toả ngát hương thơm.

Lời thách đố ông Gandhi đặt ra cho các nhà truyền giáo, cũng là lời thách đố Chúa Giêsu muốn đặt ra cho tất cả các môn đệ của Ngài, cũng như cho tất cả những người muốn tin theo Ngài, khi Ngài tuyên bố những tư tưởng mới, làm đảo lộn trật tự và quan niệm của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc:

– Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó…Phúc cho các ngươi là những kẻ đói khát…Phúc cho các ngươi là những kẻ khóc lóc…Phúc cho các ngươi là những kẻ bị thế gian ghét bỏ…

Trong cuộc sống hiện nay, thiên hạ thường ca tụng và chọn làm thần tượng của mình những người giàu sang và quyền thế. Họ có thể là những chính trị gia đầy quyền lực, đã thành công trong việc điều hành đất nước. Họ có thể là những tay tỷ phú đã thành công trong việc buôn bán. Họ có thể là những nữ tài tử, những ca sĩ đã thành công trong lãnh vực nghệ thuật và đã bước lên đài danh vọng. Họ có thể là những lực sĩ, những cầu thủ, những vận động viên nhà nghề đã thành công trong phạm vi thể thao và đã từng đoạt được những chiếc huy chương vàng tại các giải quốc tế…Tất cả những người này đều hãnh diện và thoả mãn về những thành tích cũng như về những gì đã đưa họ tới đỉnh vinh quang.

Tuy nhiên, có một người đã lên tiếng, đã đi ngược lại với những thành công rực rỡ của họ. Người đó chính là Đức Kitô khi Ngài công bố bài giảng trên núi về tám mối phúc thật mà chúng ta vốn gọi đó là bản hiến chương Nước Trời.

So sánh những gì Chúng truyền dạy với những gì thế gian theo đuổi hay nói cách khác, so sánh tinh thần của Chúa với tinh thần của thế gian chúng ta thấy chúng hoàn toàn khác biệt nhau như lửa và nước, như ánh sáng và bóng tối…để rồi cuối cùng đã dẫn tới những hậu quả cũng hoàn toàn khác biệt: một bên là hạnh phúc đời đời còn một bên là khổ đau luôn mãi trong cuộc sống bên kia.

Để trở thành người môn đệ của Chúa, chúng ta phải bước đi trên con đường Ngài đã chỉ cho. Để được thừa hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta phải tuân giữ những điều Chúa đã truyền dạy. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng ta trong lúc này là phải làm thế nào để biến những lời chúc phúc của Chúa trở thành sự thật.

Đúng thế, trước lời thách đố của ông Gandhi, các nhà truyền giáo đã làm xuất phát tại Ấn Độ một phong trào dấn thân để phục vụ. Và đối tường được phục vụ là những trẻ em mồ côi, những người bị xã hội ruồng bỏ, những người mắc phải những chứng bệnh nan y và truyền nhiễm, những người đang trong cơn hấp hối…Tất cả đều được chăm sóc, nuôi dưỡng và nhất là được trọng kính và yêu thương bởi những bàn tay dịu dàng, chẳng hạn như của các nữ tu Thừa Sai Bác Ái, do Mẹ Têrêsa sáng lập, người mà vừa mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước vào sáng Chúa nhật ngày 19 tháng 10 năm 2003.

Dòng Thừa Sai Bác Ái cùng với những hội đoàn khác và những người thiện chí đang cố gắng xoa dịu những nỗi khổ đau của người dân Ấn Độ, cũng như đấu tranh cho quyền lợi của trẻ em, phụ nữ và những kẻ thấp cổ bé miệng.

Hãy cố gắng toả ngát hương thơm qua những hành động bác ái và yêu thương, để nhờ đó góp phần vào việc làm cho những lời chúc phúc của Chúa được trở nên sự thật ngay trong cuộc sống hôm nay.

 

33. Phúc hoạ

Đoạn Tin Mừng là phần mở đầu một bài giảng rất quan trọng của Chúa Giêsu, bài giảng đầu tiên, bài giảng khai mạc chương trình truyền giảng của Chúa. Chúng ta thấy bốn lần Chúa nói “Phúc cho” và bốn lần Chúa nói “Khốn cho”, nên thường được gọi là bốn mối phúc và bốn mối hoạ, đối chiếu nhau gần như hoàn toàn: nghèo khó đối lại với giàu có, đói khát đối lại với no đầy, khóc lóc đối lại với vui cười, bị ghét bỏ đối lại với được ca tụng.

Chúng ta thấy ba mối phúc đầu và ba mối hoạ đầu đi với nhau, nghĩa là nghèo, đói và khóc lóc là bộ ba không thể tách rời. Đối lại, giàu, no và cười là bộ ba ngược lại. Bởi vì đói và khóc là hậu quả của nghèo, là biểu hiệu cụ thể nhất của cái nghèo. Trái lại, no và cười là biểu hiệu của sự giàu có. Chúng ta thấy hai hình ảnh nổi bật lên trong một thế tương phản rõ rệt: người nghèo, đói và khóc – người giàu, no và cười. Còn mối phúc thứ tư là những người bị ghét bỏ, loại trừ và bách hại vì Chúa, là những môn đệ của Chúa, họ chung số phận với các ngôn sứ. Ngược lại, mối hoạ thứ tư là những người được thế gian trọng vọng, là giới kinh sư, Pharisêu. Họ giống như những ngôn sứ giả trong lịch sử dân Chúa.

Qui chiếu lại như thế chúng ta thấy đoạn Tin Mừng này chỉ nêu lên hai đối tượng của phúc và hai đối tượng của hoạ: người nghèo và người bị ghét bỏ vì Chúa, đó là đối tượng của phúc. Người giàu và người được thế gian ca tụng, đó là đối tượng của hoạ. Giàu và nghèo, đó là những đề tài lớn, muốn hiểu được nội dung của phúc và hoạ, về người giàu và người nghèo, chúng ta phải tìm hiểu thật nhiều và thật sâu sát, ở đây chỉ xin gợi ý một vài điều thôi.

Giàu và nghèo, phúc ở đâu và hoạ ở đâu? Trước hết, chúng ta phải xác định cho rõ ràng: đừng hiểu rằng giàu có ở đời này là không được hạnh phúc ở đời sau, và ngược lại, nghèo khó ở đời này tất nhiên được hạnh phúc đời sau. Nếu như vậy thì chúng ta không được giàu có, không nên giàu có, vì giàu có là một điều xấu, làm chúng ta không được hạnh phúc đời sau. Trái lại, chúng ta hãy chịu nghèo ở đời này, hãy sẵn sàng chịu khổ, để đời sau được hạnh phúc. Không phải như vậy, chúng ta phải hiểu rằng: giàu có cũng là một cái phúc, nếu đó là thành quả do chúng ta cố gắng chuyên cần mà xây dựng được, tức là do công sức lao động mà chúng ta đã tạo được một cách chân chính. Đối lại, nghèo khó tự nó chẳng bao giờ là cái phúc cả. Cái phúc của người nghèo không phải là chính sự nghèo, nhưng là tinh thần của họ. Họ có một tấm lòng phó thác, không phàn nàn, không kêu trách, không bất mãn.

Như vậy, cái hoạ của người giàu là khi họ tự mãn, tự kiêu, tự đắc về tài sức của mình mà quên mất Thiên Chúa, là Đấng đã ban cho họ được giàu có. Hoặc cái hoạ cho người giàu là họ ích kỷ, keo kiệt, không biết dùng của cải chia sẻ cho người nghèo hay không biết dùng sự giàu có của mình mà mua sắm của cải nước trời. Cũng thế, cái hoạ của người nghèo là nghèo tiền, nghèo của nhưng không nghèo dục vọng, không nghèo tham sân si, thì đó lại là thứ giàu có giả hiệu… họ không được gì ở đời này mà cũng chẳng được gì ở đời sau.

Cũng thế, nếu chúng ta may mắn có tiền có của, giàu có hơn người, chúng ta phải biết sử dụng cho nên cái giàu của mình. Phải biết cảm tạ Chúa, phải biết chia sẻ cho người túng thiếu, phải biết đóng góp vào những việc chung, tức là giàu của và cũng giàu lòng nữa, chứ đừng giàu của mà nghèo lòng, đó là nguy cơ mất hạnh phúc nước trời. Ngược lại, nếu chúng ta nghèo khó, chúng ta cũng phải biết lợi dụng kiếp nghèo để leo về trời. Đừng vì nghèo mà ghen tương, đố kỵ, tham lam. Và dù nghèo cũng không bao giờ lỗi đức công bằng… đó là cơ may giúp chúng ta đạt hạnh phúc nước trời.

Chúng ta hãy nhớ: Phúc hay hoạ cho người giàu cũng như người nghèo, không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình. Câu chuyện sau đây minh hoạ để chúng ta hiểu thêm điều đó. Linh mục Hattinggơ, một hôm đi dạo trên một cánh đồng, ngài gặp một em bé đi học. Ngài vừa đi với em vừa đặt nhiều câu hỏi để xem em có biết gì về giáo lý không. Ngài hỏi: “Những người giàu có được vào nước trời không?”. Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết giúp đỡ những người nghèo”. Ngài lại hỏi: “Vậy những người nghèo có được vào nước trời không?”. Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng”. Cha Hattinggơ thích nhắc lại những câu trả lời của em bé ấy, và ngài thêm rằng: “Những lời đó chứa đựng một triết lý, triết lý của Tin Mừng Phúc âm”.

Chúng ta hãy nhớ: đời này được nối tiếp bằng đời sau, và chỉ có một con đường duy nhất cho mỗi người: người giàu thì đi theo con đường của mình, người nghèo cũng đi theo con đường của mình. Cả hai cùng phải đi, cùng phải biết dùng cái giàu, cái nghèo của mình để đạt được hạnh phúc nước trời. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều hiểu rõ lời Chúa dạy để rồi dù giàu hay nghèo tất cả chúng ta cùng gặp nhau trong nước trời.

 

34. Nghèo khó

Deborab là nữ tài tử chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại Rôma, dưới thời bạo vương Néron. Sau khi đóng xong một cảnh nguy hiểm, một phóng viên đã hỏi cô:

– Cô có cảm thấy sợ hãi khi bày sư tử xông vào ở đấu trường hay không?

Cô trả lời:

– Không sợ chút nào cả, bởi vì tôi đã đọc trước chuyện phim và biết chắc rằng tôi sẽ được cứu thoát.

Niềm tin cô đặt vào những người bảo vệ cô là một hình ảnh sống động cho niềm tin đặt nơi Chúa của những người nghèo khó trong Kinh Thánh. Vậy thì những người nghèo khó là ai mà lại được Ngài chúc phúc?

Bình thường chúng ta hiểu nghèo khó là túng thiếu, không có của cải vật chất, lại không phải là điều tốt lành, mà còn là một điều xấu xa, chúng ta có bổn phận phải tiêu diệt khỏi cuộc sống của mình.

Chúa Giêsu không bao giờ có ý nói rằng sự thiếu thốn vật chất là đáng được chúc phúc. Ngài không bao giờ tán đồng sự khốn khổ trong những dãy nhà ổ chuột, tồi tàn.

Theo tiếng Do Thái thì nghèo túng trước hết là thiếu thốn của cải vật chất. Nhưng nó không dừng lại ở đó, mà còn phải tiến xa hơn nữa. Vì không có của cải vật chất, nên từ ngữ này cũng ám chỉ những người không có quyền lực và ảnh hưởng, hay nói cách khác họ là những kẻ bơ vơ, cô thân cô thế. Và từ chỗ bơ vơ lạc lõng, họ thường bị áp bức và bóc lột. Và cuối cùng, đám người trên vì không có của cải, bơ vơ và bị bóc lột, nên một số đã đặt trọn niềm tín thác vào Chúa.

Thế là từ ngữ này cuối cùng được xử dụng, để chỉ những người trông cậy nơi Chúa. Và đây mới chính là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn ám chỉ trong bài giảng trên núi khi Ngài nói:

– Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó vì Nước Trời là của các ngươi.

Người nghèo khó ở đây chính là những người ý thức rằng họ không thể tìm được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó, họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa. Với họ, Chúa là tất cả, còn của cải vật chất chả là gì hết. Theo Ngài, những người này mới thực sự là kẻ được chúc phúc.

Như thế, phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, phải được hiểu như sau: Phúc cho các ngươi là những kẻ ý thức được rằng không thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải trần gian, nhưng bằng cách đặt trọn niềm phó thác nơi Chúa.

Đây cũng là đề tài được Chúa nói đến rất nhiều trong Phúc âm:

– Ai trong các ngươi nhờ âu lo mà có thể kéo dài thêm cuộc sống được ít lâu? Vậy nếu các ngươi chẳng thể thay đổi được những việc nhỏ bé thì làm sao các ngươi có thể lo liệu được những việc khác. Tiên vàn, các ngươi hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, còn những thứ khác sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vì của cải các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi cũng sẽ ở đó.

Hãy trao phó dĩ vãng cho lòng Chúa xót thương để Ngài tha thứ. Hãy trao phó hiện tại cho tình yêu của Chúa để Ngài chăm sóc và cũng hãy trao phó tương lai cho việc quan phòng của Chúa để Ngài định liệu.

 

35. Tám mối phúc

Khi Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Kìa là Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”, Anrê và một môn đệ khác liền bỏ Gioan, chạy đến với Chúa Giêsu và thưa: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Chúa trả lời: hãy đến mà xem, và họ đã đến ở với Ngài suốt ngày hôm đó.” Ngày hôm đó họ đã hỏi Ngài những gì, và Chúa đã nói những gì với họ? Phúc Âmkhông hề nói gì cả. Nhưng phúc Âm lại nói đến hậu quả của cuộc gặp gỡ trong ngày hôm đó: Sau cuộc gặp gỡ ấy, Anrê gặp em là Phêrô liền nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”.

Việc gặp Chúa và ở với Chúa đã đưa các ông đến một thái độ dứt khoát:kể từ đó các ông đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, sống nghèo khó như Thầy. Thế là chúng ta đã tìm ra được lý do thỏa đáng cho Tám mối Phúc: Muốn sống cách triệt để những đòi hỏi của Phúc Âm, muốn cho Tám mối Phúc trở thành sự thật trong cuộc sống thì phải gặp Chúa và ở với Chúa như các Tông Đồ.

Kinh nghiệm tông đồ mục vụ của hơn 33 năm linh mục đã cho tôi có dịp tiếp xúc với nhiều kitô hữu sống đời hôn nhân, nhưng sống tinh thần Tám mối Phúc một cách rất quảng đại. Vì Phúc Âm không dành riêng cho ai cả, nhưng là dành cho tất cả mọi Kitô hữu. Tinh thần nghèo khó, lòng không dính bén của cải trần gian: “Ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”, ngươi kitô hữu giữa đời vẫn phải sống và sống được tinh thần nghèo khó, không dính bén đó, với điều kiện là người kitô hữu gặp được Chúa và nghe Chúa nói trong Phúc Âm cũng như siêng năng ở với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.

Có những người, biết tính toán làm ăn, trở nên giàu có . Tuy giàu có, nhưng vẫn cố gắng đem Phúc Am vào đời sống; cố gắng sống những đòi hỏi của Phúc Âm, lòng không dính bén hay đam mê của cải trần gian thì họ đâu có bị chúc dữ. Trái lại có những người nghèo đói thực sự, nhưng lòng mải mê của cải vật chất mà không nhớ gì đến bổn phận làm con Chúa, sống bất lương; tuy là nghèo thật đấy, nhưng làm sao mà có thể được chúc phúc?

Đám đông người kitô hữu hôm nay đến nhà thờ cũng giống như đám đông người Do thái ngày xưa chạy theo nghe Chúa giảng, nghe xong rồi ra về, nhưng mấy ai nghe và đi theo Chúa; mấy ai nghe và cố gắng sống những lời của Chúa? Người đạo đức thật là người nghe Lời Chúa và đưa lời Chúa vào cuộc sống.

Một cha sở nọ vừa giảng về nước Trời. Sau thánh lễ, một giáo dân đến hỏi ngài:

– Cha quên nói cho chúng con biết phải tìm nước Trời ở đâu. Vị linh mục trả lời:

– Ồ! ở gần lắm, rất dễ. Tôi biết có một bệnh nhân rất nghèo đang sống với đứa con của bà ta ở cuối đường nhà thờ. Ông hãy đến thăm bà ta với một ít tiền và một ít thức ăn và nói với bà ta: ” Đây là những gì tôi mang đến cho bà nhân danh Đức Kitô Chuá chúng ta “. Và ông nói vài lời an ủi bà trong cơn đau đớn bệnh hoạn, thì ông sẽ thấy nước Trời. Nếu ông không thấy thì tôi sẽ hoàn trả lại số tiền chi phí lại cho ông. Người kia làm những gì vị linh mục nói. Sáng hôm sau, ông đến gặp cha sở, nét mặt vui tươi, và nói: “Thưa cha, đúng thế thật! Con đã thấy Nước Trời và con đã ở đó nửa tiếng đồng hồ.”

 

home Mục lục Lưu trữ