Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 203

Tổng truy cập: 1376503

CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Công bằng xã hội - Lm Trần Bình Trọng

Đọc báo chí hay coi vô tuyến truyền hình, ta thấy những phản ứng khác nhau của những người vừa bị mất việc. Có những người buồn chán, không ăn không ngủ. Có những người bực tức, tìm cách trả thù cai xếp hoặc chủ sở bằng những hành vi bạo động sát nhân, rồi tự sát. Người quản lý trong Phúc âm hôm nay khi biết mình sẽ bị sa thải vì phung phí của chủ, đã nghĩ ra mánh lới để mua chuộc con nợ của chủ mình. Anh ta gọi từng con nợ đến cho giảm số nợ. Đạo Kitô giáo đề cao đức công bình. Công bình là trả cho người khác cái mà họ đáng được. Đức công bình phát xuất từ tinh thần trách nhiệm của loài người với Thiên Chúa, là Đấng ban phát cho loài người những quyền lơi khác nhau.

Đạo Kitô giáo cũng chủ trương bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và quyền đòi được bồi thường khi người khác làm thiệt hại đến tài sản của mình. Những quyền lợi đó đã được ăn rễ sâu trong hai giới răn của Thiên Chúa: điều răn thứ bảy dạy ta chớ lấy của người, và điều răn Thứ mười đi xa hơn nữa dặn ta chớ tham lam của người.Người quản lý trong Phúc âm hôm nay đã lỗi phạm Điều răn Thứ bảy. Anh ta đã phung phí của chủ. Khi biết mình bị sa thải, anh ta còn dùng của chủ để mua chuộc con nợ, i.e., dùng của chủ để làm lợi cho mình. Anh ta đã lỗi đức công bình xã hội là làm điều bất công.

Thoạt nghe ta lấy làm vấp phạm khi Chúa Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Chúa phải kết án việc làm gian lận của viên quản lý đó hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt trắng trợn của anh ta như tiên tri Amốt đã tố cáo những tệ đoan trong xã hội thời bấy giờ. Amốt mô tả việc người giàu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8:5-6). Tuy nhiên đi sâu vào vấn đề ta thấy Chúa không khích lệ việc người quản lý phung phá tài sản của chủ. Thực ra Chúa chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Chúa khen người quản lý có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào chân tường. Rồi từ đó Chúa kết luận: Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng (Lc 16:8). Và rồi Chúa thách thức ta: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16:9).

Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa. Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là ta phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản lý bất lương sửa soạn cho tương lai của mình trong nước trần gian.Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong Phúc âm hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng..

Nếu người quản lý bất lương đã dùng cái sáng kiến để đương đầu với trở ngại hầu có thể đi tới một giải quyềt ổn thoả, thì Chúa cũng muốn cho ta dùng sáng kiến để đối phó vời những trở ngại thiêng liêng.Đạo giáo trong đời sống hàng ngày cũng thách đố ta như bất cứ công việc nào khác.. Chúa đã cho ta một thách đố để ta đối phó bằng cách làm quyết định nhanh chóng và quả quyết cho đời sống thiêng liêng cũng như khi làm quyết định cho những sự vật trần thế.

Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay vẫn còn thích hợp cho thời đại ta đang sống: Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc 16: 10).

 

51. Phản bội - Lm Bùi Quang Tuấn

Vào một đêm Chúa nhật không trăng sao của mùa đông năm 2001, Bob Hanssen rời khỏi căn nhà ấm áp của mình, tiến ra công viên Foxstone thuộc tiểu bang Virginia, đi đến hộp thư chết mang tên Ellis nằm dưới chân một cây cầu gỗ không người qua lại. Tại đây, Bob nhét vội chiếc túi nhựa với nhiều giấy tờ xuống một chiếc hố nhỏ vừa mới đào. Sau đó y lấp đất và lá lên. Đoạn ra về.

Vừa rời khỏi hàng cây ngoài cùng của công viên, thình lình tám, chín bóng đen xuất hiện, với súng lục lăm lăm trên tay. Họ ập đến chụp lấy Bob, đè xuống và còng tay lại. Đang khi đó mấy bóng đen khác tiến vào màn đêm, trở lại chỗ cây cầu gỗ, đào lên sấp giấy trong bịch nylông mà Bob vừa chôn xuống trước đó mấy phút.

Cũng trong thời gian ấy, tại một địa điểm khác không xa, một vài bóng đen cũng đang lén lút theo dõi một hộp thư bí mật mang tên Lewis. Họ quan sát xem có ai đến lấy số tiền mà Bob chưa kịp tiếp nhận không. Nhưng đợi hoài chẳng thấy, nên họ đã lặng lẽ thu hồi gói tiền trong đó chứa 50 ngàn đô la tiền mặt. Đây là số tiền mà người Nga trả cho Bob, một nhân viên lâu năm của Cơ quan Điều tra Liên bang FBI, để anh này bán cho họ những tài liệu tối mật của Hoa kỳ.

Các nhân viên phản gián FBI đã theo dõi và bắt quả tang hành động phản bội của Bob Hanssen. Họ điều tra và khám phá thêm rằng Bob đã làm gián điệp nhị trùng suốt 15 năm qua, gây nên những thiệt hại không thể đo lường cho uy tín của cơ quan FBI, trong đó có việc chỉ điểm ba điệp viên của Nga làm việc cho Hoa kỳ, khiến cho hai trong ba người này đã bị xử tử. Hiện nay Bob đang chờ ra toà về tội phản quốc và có nguy cơ lãnh án tử hình.

Không ít đồng nghiệp thân quen với Bob đã sửng sốt khi được tin anh ta bị bắt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao Bob lại phản bội đất nước, gia đình, con cái và bạn bè như vậy? Phải chăng anh ta bất mãn với cơ quan tình báo và muốn trả đũa việc các nhân viên CIA bị buộc phải dùng đến food stamps vào năm 1985? Hay bởi vì có một khúc mắc tâm lý nào đó trong đầu của Bob Hanssen?

Hàng chục câu hỏi được nêu lên, nhưng câu trả lời dễ hiểu nhất chính là: Bob Hanssen cần tiền. Tính ra từ khi khởi sự mua bán tin mật cho đến ngày bị bắt, Bob đã nhận được 600 ngàn đô, 3 viên kim cương, và 800 ngàn đô khác trong một nhà băng tại Nga.

“Đồng tiền có sức mạnh vạn năng,” nhiều người đã nói như thế. Lắm lúc chính đồng tiền đã làm đảo điên cán cân công lý, dập tắt tiếng nói của lương tâm, và hủy diệt bao quan hệ thân thương giữa con người với nhau. Chỉ vì một lợi nhuận riêng tư mà không ít kẻ đã bất chấp danh dự và nhân phẩm của chính mình, miễn sao có tiền.

Từ thuở xa xưa, lòng tham đã chi phối đời sống con người. Khi ẩn trong đồng tiền là những giá trị vật chất có khả năng trao đổi mua bán, và khi giá trị mọi sự, ngay cả giá trị con người, được qui định dựa trên tiền tài vật chất, thì đồng tiền bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong lòng người ta. Nó trở thành chủ nhân ông, khống chế hết mọi ý hướng đạo đức, công bình, và nhân phẩm.

Đứng trước tình cảnh bao kẻ đàn áp, bon chen, vì đồng tiền, thậm chí còn coi thường phẩm giá và bóc lột đồng loại đến tận xương tuỷ, Tiên Tri Amos, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, đã lên tiếng cảnh tỉnh: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ lãng quên tất cả việc chúng làm cho đến cùng” (Am 8:4-7).

Bị Thiên Chúa lãng quên là một hình phạt khủng khiếp. Bản cáo trạng được đọc lên từ thời xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn có đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, và làm giàu. Vẫn có đó những kẻ chẳng màng chi lễ lạy, cứ “thành tâm” làm nô lệ cho công việc và đồng tiền. Vẫn có đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn có đó những kẻ “lấy đôi dép” để đổi một thai nhi, phá đi một mạng người. Tuy không phải là những tên gián điệp phản bội quốc gia, nhưng họ là những kẻ bội phản con người và rao bán chính mình.

“Các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền tài.”

Chân thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người ta sẽ không thể thu lợi bằng con đường bất chính. Giữa Thiên Chúa và tiền của, con người phải chọn một. Nếu đặt Thượng Đế làm cùng đích, tiền bạc phải là phương tiện. Và chỉ có chọn lựa như thế mới mang lại giá trị và hạnh phúc đích thật cho con người.

Bài Phúc âm “Người Quản Lý Bất Lương” đã nên như một lời cảnh tỉnh dành cho con người trong thế giới tôn thờ vật chất. Phải chăng Đức Giêsu muốn nói: sẽ đến một ngày, người ta phải rời khỏi căn nhà trần gian, chẳng ai còn được làm chức quản lý nữa. Họ sẽ phải tính sổ về việc tìm kiếm và sử dụng tiền bạc khi còn tại thế. Người biết dùng của cải để mua bạn hữu, công phúc, sẽ được tiếp đón hân hoan. Kẻ tôn thờ tiền bạc, phản bội lương tâm, tàn phá nhân phẩm sẽ lãnh lấy bản án thịnh nộ gay gắt.

Lời Thánh Kinh vẫn luôn nhắc nhở:

Ấy, con người khác chi hơi thở

Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu

Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng

Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ tiêu dùng.

(Tv 38)

 

52. “Không ai có thể làm tôi hai chủ”

(Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh)

Bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, giống như bài Phúc Âm tuần trước, cũng có hai phần, phần buộc đọc và phần không buộc đọc. Nếu phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước dài hơn và ở đoạn cuối, thì phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần này cũng dài hơn và ở đoạn đầu, đó là đoạn diễn tả về người quản gia bị thanh tra về những thiệt hại gây ra cho gia chủ nên hắn đã mánh khóe lén lút tìm cách để có thể sống còn sau khi bị cách chức đuổi đi. Còn phần buộc đọc trong bài Phúc Âm hôm nay, có thể tóm gọn trong lời Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ của Người là “không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bởi vì, theo Người cho biết ngay sau đó là, “hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”. Ngoài ra, kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cho biết rõ hai chủ này là gì, qua lời Người khuyên các môn đệ như sau: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu không nói đến vai trò làm chủ hay chủ chốt của “bản thân mình” là yếu tố chính yếu và trước hết con người phải từ bỏ họ mới có thể theo Người, làm môn đệ của Người, như tinh thần của lời Chúa phán trong bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật Thường Niên XXIII Năm C cách đây hai tuần. Bởi vì, có bỏ bản thân mình hay làm chủ bản thân mình, chúng ta mới có thể làm chủ được tất cả mọi sự phụ thuộc khác, chẳng hạn như danh vọng chức quyền hay của cải tiền bạc. Ngoài ra, tại sao Chúa Giêsu cũng không đề cập đến Satan vốn đóng vai vương chủ thế gian “từ ban đầu” (Jn 8:44), tức từ sau khi đã làm cho hai nguyên tổ sa ngã phạm tội, như chính hắn đã tự nhận chủ quyền của mình trên thế gian khi cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa về lòng tham của cải, ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 4, câu 6 và 7. Vậy, tại sao ở đây Chúa Giêsu lại tôn phong tiền bạc lên vai trò làm chủ, vốn là những gì ngoại thân của con người chủ thể, và là những gì Satan dùng làm mồi nhử lòng tham vô đáy của con người?

Đúng thế, tự bản chất, mọi sự ngoại thân của con người chỉ là phụ thuộc chứ không phải chủ chốt nơi con người hay vượt trên con người, loài tạo vật duy nhất trên thế gian này đã được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài để ban cho quyền làm chủ trái đất, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 27 và 28. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chính những cái phụ thuộc nhiều lúc lại trở thành chính yếu, trở thành chủ chốt trong cuộc đời con người và đối với con người, đến nỗi, thay vì con người ăn để sống thì lại sống để ăn, như hiện trạng xã hội văn minh tân tiến gần như tột bậc ngày nay hiển nhiên cho thấy, liên quan đến cá nhân chủ nghĩa và duy lợi chủ nghĩa. Không phải hay sao, vàng bạc chỉ là vật tùy thân, tuy nhiên, chúng đã trở thành một con bò vàng đúc, thành cứu chúa một thời của dân Do Thái trong sa mạc dưới chân Núi Sinai, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc một tuần trước! Cũng không phải hay sao, đang nắm trong tay “tất cả mọi sự của cha là của con”, tức đang làm chủ gia tài với cha của mình, người con thứ, như trong phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước thuật lại, “sau khi phung phá tiền bạc vào cuộc sống buông tuồng… hắn đã phải đi làm công cho một người trong vùng, người đã sai hắn đi chăn heo. Hắn mong sao được no bụng bằng các thứ cám heo ăn mà cũng chẳng ai cho”. “Người trong vùng” đây là ai, nếu không phải đam mê nhục dục nơi con người, “chăn heo” đây là gì, nếu không phải sống theo xác thịt, và “cám heo ăn” đây là chi, nếu không phải là của cải tiện nghi vật chất, là những gì làm thỏa mãn xác thịt, cũng là những gì xác thịt vốn thích hưởng thụ. Đúng thế, một khi con người phung phá hết gia tài ân sủng được ban cho mình, như chính họ xin Thiên Chúa là Cha chia cho qua Bí Tích Rửa Tội, nghĩa là sau khi con người đã từ bỏ Thiên Chúa là chủ tể tối cao duy nhất của mình, họ sẽ đi đến chỗ làm tôi cho tiền bạc, cho vật chất tầm thường như “các thứ cám heo”, đến nỗi, chúng trở thành những gì quí nhất, không thể thiếu trong đời họ, dù họ không bao giờ no thỏa chúng chăng nữa.

Lời Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”, về phương diện sống đạo quả thực là như thế đó. Tuy nhiên, nguyên tắc sống đức tin còn cho thấy rằng, con người chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, một khi họ thực sự nhận biết ý định của Ngài, cũng như nhận biết chính bản thân của Ngài mà thôi, tức một khi họ nhận biết những mạc khải được Thánh Phaolô xác tín và loan truyền trong Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở bài đọc thứ hai hôm nay, đó là: “Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Và chân lý ở chỗ: ‘Chỉ có một Thiên Chúa. Chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mạng sống làm giá chuộc tất cả mọi người”. Bằng không, nếu không nhận biết Thiên Chúa, không tôn phụng một mình Ngài là chủ tể duy nhất và trên hết của mình cũng như của tất cả mọi người, con người sẽ đi đến tình trạng coi của hơn người, đến tình trạng chỉ “sống nguyên bởi bánh”, tình trạng sống để mà ăn hơn là ăn để mà sống, một tình trạng của “những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong đất nước”, như được tiên tri Amos diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay như sau: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi bán lúa mục nát”. Về việc làm tôi tiền của đưa đến tình trạng lấn át lẫn nhau này càng được sáng tỏ hơn trong dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô ở bài Phúc Âm tuần tới.

Đối tượng chính của những lời Chúa Giêsu khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay là thành phần các môn đệ của Người, chứ không phải là nhóm Pharisiêu, hay chung dân chúng, hoặc các trưởng tế và kỳ lão, như nơi một số đoạn Phúc Âm khác. Vậy lời Chúa huấn dụ các vị ở câu kết bài Phúc Âm hôm nay: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc” cho chúng ta thấy lý do chính yếu của việc Kitô hữu nói chung, và các vị có quyền chức trong Giáo Hội nói riêng, chểng mảng hay bỏ bê trách vụ quản gia đức tin của mình, thậm chí còn tác hại đến việc mở mang Nước Chúa, là vì họ chưa thật lòng hay hết lòng “tìm nước Chúa trước và sự công chính của Ngài” (Mt 6:33), trái lại, “còn lo lắng bối rối nhiều sự” phụ thuộc như Matta trong Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C trước đây, chưa kể đến có những lúc họ còn ham mê danh vọng chức quyền, giầu sang phú quí, cạnh tranh hoạt động v.v. Trong những trường hợp đang sống bê bối với trách nhiệm thiêng liêng của mình như thế, trường hợp người quản gia đức tin đang tác hại nhà Chúa như vậy, họ phải trả lẽ ra sao với vị Thiên Chúa gia chủ của họ, với Đấng đã kêu gọi và ký thác việc trông coi nhà Chúa cho họ, nếu không phải họ cần phải khôn lanh như tên quản gia được Chúa Giêsu khen trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm ở trong ngoặc đơn không buộc đọc. Đúng thế, nếu tên quản gia trong dụ ngôn này lén lút bớt xén nợ nần cho các con nợ của gia chủ để nhờ đó khi sa cơ lỡ bước anh ta sẽ được hậu đãi và có nơi nương tựa thế nào, thì thành phần quản gia thiêng liêng coi sóc nhà Chúa cũng vậy, nếu biết thông cảm với lỗi lầm của kẻ khác, tức thông cảm với những yếu đuối vấp phạm các kẻ ấy mắc nợ với Chúa, họ cũng sẽ được cảm thông lỗi lầm của họ như thế, sẽ không bị ruồng bỏ: “Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy” (Mt 5:7) là thế.

Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay là “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”, vì “không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ”, một sự thật không thể chối cãi được ngôn ngữ bình dân Việt Nam khuyên là “đừng bắt cá hai tay”. Thế mà, nếu có một tông đồ Giuđa vừa theo Chúa vừa giữ túi tiền đến nỗi bán chủ lấy tiền thế nào, thì lích sử Giáo Hội cũng không thiếu những vị nên thánh trong cảnh giầu sang phú quí như vậy. Phải chăng các vị thánh này đã biết “trả cho Cêsa những gì của Cêsa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” (Mt 22:21).

 

53. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn nghĩ gì về một người nghèo được người ta đồng ý cho “đổi giấy lấy tiền” (cứ một tờ giấy thường nhỏ lấy một tờ giấy bạc 10.000đ, hay 50.000đ VN, hoặc lấy tờ 10 hay 50 USD), mà lại không chịu đổi, cứ nhất định khư khư giữ lại những tờ giấy tầm thường cho mình? Bạn có bao giờ nghĩ mình cũng đang làm tương tự như thế trên bình diện tâm linh không?

2. Một người thường tỏ ra bất tín trong chuyện tiền bạc, hay lỗi hẹn, hay thất hứa, v.v… thì bạn có dám giao cho họ một công việc gì lớn không? Tại sao? Bạn có những kinh nghiệm nào cụ thể về việc này?

Suy tư gợi ý:

1. Theo khôn ngoan thế gian, phải biết lo liệu trước tương lai

Ta thử đặt mình vào địa vị tên quản gia bất lương kia để xem mình nên làm gì hầu “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”. Nếu không lo liệu trước, thì coi chừng chết đói, vì ngoài chức quản gia ra, anh ta chẳng biết làm gì khác để sinh sống, “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”. Tốt nhất là nên lợi dụng ngay quyền hạn của chức quản gia mà mình còn giữ được trong thời gian ngắn ngủi một tuần hay một tháng này để lo liệu chuyện đó. Bây giờ cần phải đầu tư tình cảm nơi mọi người. Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất để gây tình cảm là lợi dụng chức quản gia để làm ơn cho họ. Anh ta nghĩ: ông chủ có rất nhiều con nợ, mình giảm nợ cho họ tất nhiên họ phải mang ơn mình, có tình cảm với mình, nhờ đó, khi mình thất nghiệp, họ sẽ tôn trọng và giúp đỡ mình. Thế là “anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” (6) Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. (7) Rồi anh ta hỏi người khác: “Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một ngàn giạ lúa”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi”“.

Như thế, anh ta đã dùng những tiền của không phải của mình để làm lợi cho mình: dùng tiền của của người khác do mình tạm thời quản lý để mua lấy tương lai cho mình về sau. Nhân câu chuyện này, Đức Giêsu khuyên chúng ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Điều ấy có ý nghĩa gì? Cần phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào?

2. Áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc lo hạnh phúc vĩnh cửu

Chúng ta ai nấy đều có một thời gian rất ngắn ngủi ở trần gian này trước khi bước vào đời sống vĩnh cửu đời sau. So với đời sống mai hậu, đời sống này rất là ngắn ngủi trong đó mọi sự đều chóng qua, giả tạm, không bền. Thật vậy, tất cả mọi sự ta đang có trong tay – trí tuệ, khôn ngoan, sức khỏe, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn, của cải, v.v… – có thể mất đi bất cứ lúc nào. Chỉ một cơn bệnh nặng hay một tai nạn ở đầu có thể làm ta mất hết trí tuệ, sức khỏe, làm ta điên loạn, không còn biết gì. Một cuộc đổi đời có thể làm ta mất hết địa vị, quyền lực và tiền bạc. Như thế tất cả những gì ta đang có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, đều không phải là của ta, mà chỉ để ta quản lý một thời gian thôi. Ta chỉ quản lý nó nhiều lắm là 100 năm ở đời này. 100 năm đó so với sự hiện hữu vĩnh cửu của ta thì cũng tương tự như một phút so với cả cuộc đời trần thế của ta. Tới khi chết, tất cả những của cải ta đang quản lý, dù nhiều tới đâu, cũng đều phải để lại cho người khác quản lý, và ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ những gì ta có được ở đời sau, mới là của ta đích thật, nó sẽ ở với ta mãi mãi.

Tuy nhiên, một điều rất lạ lùng và hết sức đáng mừng là ta có thể dùng những thứ giả tạm chóng qua mà ta đang quản lý ở đời này để tạo nên của cải đích thực và vĩnh cửu cho ta ở đời sau. Vì thế, xét về mặt này, hoàn cảnh của ta giống y hệt hoàn cảnh của viên quản lý trong dụ ngôn của Đức Giêsu. Vậy thì dại gì ta cứ giữ khư khư lấy những của giả tạm đó cho mình, mà không lợi dụng thời gian quản lý quí báu những của cải ấy để mua sắm lấy Nước Trời, tức hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế, những kẻ chỉ lo làm giàu ở đời này mà không màng đến việc lo liệu cho hạnh phúc đời sau, thì đúng là bỏ mất những cơ hội hết sức quí báu để “đổi giấy lấy tiền”. Cơ hội này mất đi sẽ không bao giờ trở lại.

Người quản lý trong dụ ngôn đã dùng tiền mà mình đang quản lý để làm ơn làm phúc cho người này người nọ, nhờ đó khi không còn quản lý nữa, ông vẫn được người khác quí trọng, tiếp đón, hậu đãi. Đức Giêsu khuyên chúng ta cũng nên “dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nghĩa là hãy dùng những của cải tạm bợ – tinh thần cũng như vật chất – mà Chúa trao cho ta quản lý, để sắm lấy những của cải vĩnh viễn trên trời. Bằng cách nào? bằng cách sử dụng những của cải ấy để thực hiện những hành động yêu thương: gây hạnh phúc hay làm lợi cho tha nhân, làng xóm, xứ đạo, quê hương đất nước, xã hội, Giáo Hội… Ta có thể dùng tiền của, tài năng, trí tuệ của mình – vốn giả tạm, chóng qua, nay còn mai mất – để đầu tư cho sự hạnh phúc của tha nhân, sự phát triển của xã hội, sự thánh thiện của Giáo Hội, v.v… Nhờ vậy, tự nhiên ta có một kho tàng vĩnh cửu không thể hư mất ở trên trời. Như thế chẳng phải là ta đã “đổi giấy lấy tiền”, “đổi đồ giả lấy đồ thật” sao? Vậy dại gì mà không đổi?

3. Hãy trung tín trong mọi việc hằng ngày

Đã là người, ai cũng muốn mình trở thành người có giá trị, được mọi người tín nhiệm. Sự tín nhiệm và giá trị của ta một phần nào được đo bằng việc người khác có dám giao cho ta đảm trách những việc lớn lao hay không. Nhưng làm sao người khác có thể dám giao cho ta việc lớn, khi họ thấy ngay cả việc nhỏ ta cũng không chu toàn được? Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. Sự khôn ngoan đòi buộc người ta, khi giao việc cho ai mà muốn thành công, thì phải thử xem người ấy có đủ khả năng và đức độ để chu toàn việc ấy không. Đức độ và khả năng là hai yếu tố quan trọng để căn cứ vào đó mà tín nhiệm một người. Nói về việc thử người, trong dân gian có câu: “Lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà, và lấy đàn bà thử đàn ông”. Tôi nghĩ câu ấy cũng rất chí lý.

Riêng tôi, theo kinh nghiệm cá nhân rất hạn hẹp của tôi thì chỉ nên tín nhiệm những ai tỏ ra trung tín trong việc sử dụng tiền bạc hoặc của cải của người khác. Và đó cũng là điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” Kinh nghiệm hạn hẹp của tôi cho thấy người nào không trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường – tôi chỉ dám nói “thường” mặc dù tôi chưa thấy có luật trừ – không trung tín hay không đáng tín nhiệm trong những chuyện khác. Còn ai trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường trung tín hay đáng tín nhiệm trong những việc khác. Theo quan niệm của tôi, một người không giữ được sự công bằng – dù về tinh thần hay vật chất – thì cũng khó có thể là một người bác ái đích thật hay một người thánh thiện được.

Vậy, ta không nên sợ rằng mình không được tín nhiệm, mà hãy sợ rằng ta chưa có thái độ đúng đắn trong những việc nhỏ, trong sự công bằng, trong cách sử dụng tiền bạc hay của cải không phải là của mình.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng mọi sự con có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, không phải là của con mà là của Cha. Cha giao cho con quản lý chứ không phải làm chủ. Con phải sử dụng chúng theo ý Cha chứ không phải theo ý con. Xin cho con biết sử dụng những thứ Cha giao cho con quản lý để tạo nên kho tàng vĩnh viễn cho con ở trên trời. Xin cho con biết trung tín trong mọi việc nhỏ nhặt của đời sống thường ngày, để con đáng được Cha và mọi người tín nhiệm trong những việc lớn lao hơn.

 

54. Hãy biết lo cho tương lai! – Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cần biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái.

Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi. Nhưng, mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia? Vậy, nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào? Và, nếu sai thì sai ở đâu? Chúng ta cùng nhau suy niệm.

1. Người quản gia bất trung là ai?

Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Dothái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì!

Với người Do thái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.

Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong e kíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình. Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội “quyền huynh thế phụ” để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16,2).

Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16, 3-4). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông! “Cái khó ló cái khôn”, trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ: “… 'Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo: 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.' Rồi anh ta hỏi người khác: 'Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: 'Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo: 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi'” (Lc 16, 5-7). Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.

Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không? Thưa không! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”. Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).

2. SĐiệp Lời Chúa

Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).

Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).

Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.

3. Sống Lời Chúa Hôm Nay

Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( (Tv 127,1)). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.

Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16,8). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.

Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, “Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.

 

55. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long

Của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em.

1.- Ngữ cảnh

Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).

Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho đến nay bài này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?

Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.

Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);

2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):

a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),

b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),

c) Áp dụng 3 (c. 13).

3.- Vài điểm chú giải

- một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[1].

- tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu khống.

- phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.

- Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rô-ma).

- viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.

- Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).

- viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.

- Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu )” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.

Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.

- con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).

- nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).

- Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)

Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.

Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.

Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!

“Ông chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Có một cách giải thích khách hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.

Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải hành động với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.

* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)

Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau

Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian”, “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.

Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn); câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.

Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?

+ Kết luận

Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.

Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, túc sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.

2. Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Người, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.

3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.

4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn…

5. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.

-----------------------------------------------

[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.

 

home Mục lục Lưu trữ