Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1379575

CỘNG TÁC VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

Cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa

Một linh mục được giáo dân mời dự tiệc tại nhà.

Trong suốt bữa tiệc, ngoài tiếng nói cười của khách, linh mục thắc mắc mãi vì có tiếng nước chảy róc rách trong nhà đâu đó. Vì là lần đầu đến nhà này, nên ngài không biết nước đó từ đâu chảy, hay là hồ nước trong nhà bị thủng…

Sau cùng, không thể giữ thắc mắc mãi, ngài hỏi người giúp bàn. Và người này lịch sự đáp: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà này, tình cờ họ khám phá mạch nước ngầm, và đó là tiếng nước chảy từ mạch nước.

Nghe nói thế, vị linh mục ngẫm nghĩ: chính nhờ mạch nước đó mà gia đình giáo dân này khá giả và ngoan đạo. (x. LMTV, Minh Họa Lời Chúa, Tập 1, tr. 63)

Nhờ mạch nước ngầm đó mà gia đình này giáo dân được sung túc. Ðiều đó làm chúng ta nghĩ ngay đến lời sứ thần chào Đức Maria khi truyền tin: kính chào Bà, Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà.

Mẹ Maria đón nhận đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ là mạch suối bắt nguồn từ Thiên Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những ai năng chạy đến với Mẹ để Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa. Vì hồng phúc, và niềm vui thánh thiện Chúa ban trong tâm hồn Mẹ mà Mẹ vui mừng, muốn được chia sẻ, muốn cao rao danh Chúa cho người khác. Vì lòng kính mến Chúa và yêu thương tha nhân tràn đầy mà Mẹ đã đến với bà Isave để giúp đỡ bà trong những ngày thai nghén.

Ðiều này cho thấy, những ai kính mến Chúa, biết mở lòng ra đón Chúa, biết cộng tác với chương trình yêu thương của Thiên Chúa thì cũng biết yêu thương tha nhân và sẵn sàng phục vụ cho lợi ích của tha nhân trong tâm tình yêu mến Chúa.

Rõ ràng, Ðức Mẹ đem Chúa đến thăm gia đình bà Isave là đem nguồn hạnh phúc đến cho gia đình Isave, khi đó, bà Isave được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần đã kêu lớn tiếng, ca khen Ðức Maria mà cũng là lời chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhờ Mẹ Maria đem Chúa đến gia đình Isave mà gia đình bà càng được chúc phúc hơn, thánh Gioan Tẩy Giả có lẽ được ơn đặc biệt ngay lúc đó nên biết nhảy mừng Ðấng Cứu Thế lúc còn trong dạ Mẹ. Chính Mẹ là mạch suối nước đem đến niềm vui thánh thiện cho gia đình Giacaria, để rồi khi nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban qua Mẹ Maria, gia đình Giacaria biết hy sinh cho Chúa, sẵn sàng dâng đứa con duy nhất của mình cho chương trình của Thiên Chúa. Chính thánh Gioan Tẩy Giả khi lớn lên đã vào tu trong hoang địa, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, để rồi khi đến thời Chúa định thì xuất thế, rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn, chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu Cứu Thế ngự đến.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã biết đáp trả hồng ân Chúa ban cho mình và đã làm chứng cho Chúa tới cùng: chịu chết vì chân lý và nêu gương yêu kính Chúa cho mọi người.

Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được ban đầy hồng ân qua Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Giải Tội… và được rước Chúa vào nhà thường xuyên, chúng ta có biết nhảy mừng đón Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả, có biết đem Chúa đến cho mọi người xung quanh để họ cũng được niềm vui, cũng nhận được sự phục vụ của chúng ta. Nhờ vậy, họ nhận ra tình thương Chúa, được chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta và được phần phúc Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin giữ lời Người.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết bắt chước Ðức Mẹ đem Chúa đến cho mọi người và biết phục vụ mọi người theo ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.

 

28. Tha nhân được chúc phúc

(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)

Người môn đệ Chúa với khoé nhìn “tha nhân là người được Chúa chúc phúc”

Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.

Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ – lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ” (xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).

Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?

Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…

Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:

1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.

2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.

3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.

4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.

Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?

Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.

Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.

Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.

Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.

Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).

Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.

 

29. Bước theo Mẹ

Người ta thường nói mùa vọng là mùa của Đức Trinh Nữ Maria điều đó thật chí lý. Nếu Gioan Baotixita và Isaia gương mẫu cho ta trong mùa vọng thì Đức Maria sẽ là gương mẫu tuyệt hảo hơn nữa. Mẹ không chỉ là người dọn đường mà còn là một nhân vật cần thiết cho việc nhập thể theo chương trình của Thiên Chúa an bài. Ta có thể nói được rằng, Giáo Hội tìm thấy nơi Đức Maria thái độ thiêng liêng để cử hành và sống các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm nhập thể. Vì Đức Maria là mẫu gương biết lắng nghe Lời Chúa và rao giảng lời Người.

  1. Lắng nghe lời Chúa với niềm tin mãnh liệt

Có thể tóm lại cuộc đời Đức Mẹ với hai chữ “Fiat”. Nhưng để đạt được hai chữ này cách trọn vẹn, đòi hỏi nơi Đức Maria niềm tin mãnh liệt. Tương tự thời Cựu Ước tổ phụ Áp-ra-ham muốn có một dân tộc đông như sao trên trời, như cát bãi biển, có miền đất hứa làm gia nghiệp thì cũng phải có niềm tin. Đức tin là điều kiện cần, vì nó vừa là khởi điểm vừa là con đường đưa Đức Maria tới địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì theo lời thánh Augustinô”Đấng mà Mẹ Maria sinh hạ trong đức tin, cũng là Đấng Ngài cưu mang trong đức tin nữa”. Với một niềm tin sâu xa Mẹ đã đáp lại lời sứ thần Gabriel rằng “Đây tôi là nữ tỳ của Chúa xin làm cho tôi như lời sứ thần đã nói”. Thế là từ đấy người nữ tỳ Maria hiển nhiên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nếu nhìn thân sâu hơn, ta thấy Đức Maria đã cưu mang Chúa bằng đức tin nơi tâm hồn trước khi cưu mang thân xác Ngài trong lòng dạ mình bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì đức tin đó mà Mẹ được gọi là diễm phúc “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Như vậy nhờ đức tin, Maria đã đóng vai trò chủ động và chứng nhân trong cuộc nhập thể. Hơn nữa, Đức Maria còn ghi sâu những việc xảy ra để suy niệm trong lòng. Mùa vọng là mùa trông chờ Chúa đến, thì Đức Maria là gương mẫu tuyệt vời, Mẹ đã tiếp nhận Chúa, tin tưởng và phó thác. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm trạng như Đức Maria trong mùa vọng này, và tin nhận những lời Chúa hứa đã và đang thực hiện ngay trong đời của mình.

  1. Con người truyền giáo

Việc Mẹ Maria lên đường thăm người chị họ là điều rất tự nhiên, và cũng muốn giúp đỡ người chị họ trong lúc sinh nở là điều bình thường. Nhưng đàng sau cái bình thường đó là cả một sự phi thường, một sáng kiến và quyết định cá nhân có sự hướng dẫn của Thánh Thần. Chỉ cần một lời tiên báo của Sứ Thần cộng với ơn thánh đã thúc đẩy Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Đặc biệt bài phúc âm nói đến hai từ “vội vã” để nói lên một hành động cấp bách và dứt khoát. Một khi đã ưng thuận Thánh Ý Chúa, vâng theo tiếng gọi của Ngài, thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lạnh lẹ. Qua Bí Tích Rửa Tội mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến cho người khác. Con đường truyền giáo cần những con người nhiệt thành, với những bước chân nhanh nhẹn và một tinh thần cởi mở, dầu trên con đường có nhiều khó khăn.

Việc Mẹ là một thiếu nữ trẻ tự ý làm một cuộc hành trình dài 3 ngày đường, rồi còn ở lại đó mấy tháng trời xa nhà, hẳn phải là một cái gì đó gây kinh ngạc cho người Do Thái thời đó, và có thể bị coi là quá đáng. Nhưng Đức Maria đã bất chấp tất cả, những cái nhìn phàm trần đó một khi đã muốn thực hiện Thánh Ý Chúa. Ngày nay những cái nhìn khó chịu, những lời nói mỉa mai, những hành động khiu khích…. Cũng nhan nhãn nhằm chống đối những con người truyền giáo. Vì thế chúng ta hãy học theo mẫu gương Mẹ Maria chấp nhận tất cả, cũng như Mẹ ngày xưa cũng phải chịu rất nhiều đau khổ khi chấp nhận thi hành Thánh Ý Chúa. Vì khi bước theo Chúa chính là chấp nhận vác thánh giá với Người. Mỗi người đều được Chúa mời gọi và đều được Chúa ban cho Thánh Giá, tùy vào hoàn cảnh tùy vào khả năng. Nhưng điều quan trọng là phải biết thưa “Xin vâng” và thì hành với tinh thần “Vội vã” lên đường như Đức Maria hôm nay, để cùng đem Chúa đến cho người khác trong Mùa vọng này.

Lạy Chúa, ngày nay có rất nhiều người chỉ biết hưởng thụ, mà không biết phục vụ, chỉ nhận mà không biết cho. Xin cho mỗi người chúng con biết rằng mình đã nhận rất nhiều nơi Chúa. Đặc biệt là chính Chúa để chúng con cũng biết đem Chúa đến cho người khác. Amen.

 

30. Chia sẻ niềm vui

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP)

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa Vọng, có ba nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến, đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Thiên sai sẽ đến. Đó là thánh Gio-an Tiền Hô, người mở đường và dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến. Nhân Vật quan trọng thứ ba là Đức Maria, qua Mẹ, Đấng Thiên sai đã đến trần gian, và nhờ Mẹ, ơn cứu rỗi bắt đầu được thực hiện. Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của I-sai-a, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gio-an Tiền Hô, và hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, chúng ta quen gọi theo ảnh hưởng của các cố Tây Ban Nha là bà I-sa-ve.

Khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ biết: Đức Mẹ rất có phúc vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Khi được sứ thần cho biết như thế, sau đó ít ngày, Đức Mẹ đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét và ở lại giúp đỡ ba tháng. Những lý do nào đã thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét?

Lý do đơn giản trước nhất là Đức Mẹ đã coi những lời sứ thần báo tin về bà chị họ là một lời mời thăm viếng, hỏi thăm. Thứ hai, có thể Đức Mẹ đi để kiểm điểm, xem xét dấu chứng mà sứ thần đã đưa ra, đó là việc bà Ê-li-sa-bét có thai có đúng không? Tuy nhiên, làm thế không có nghĩa là Đức Mẹ hồ nghi lời sứ thần truyền tin cho mình. Bởi vì Đức Mẹ đã thưa: “Xin vâng”, tức là Đức Mẹ đã tin rồi. Thứ ba, có thể Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui và có dịp cùng bà chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả hai đều được hưởng đặc ân Thiên Chúa. Lý do thứ tư, lý do chính, là lòng bác ái, yêu thương của Đức Mẹ. Lòng tốt, bác ái, giúp đỡ, chia sẻ… đã thúc bách Đức Mẹ lên đường. Bởi vì gia đình bà Ê-li-sa-bét neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng thai nghén và trong thời gian sinh hạ.

Mẹ Maria đi thăm gia đình Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, Mẹ đã quên mình ra đi đem niềm vui cho người khác. Vì thế, có thể nói Mẹ ra đi truyền giáo. Đức Mẹ đã là một nhà truyền giáo đầu tiên, là đem Đấng Cứu thế đến cho bà chị họ và riêng cho Gio-an Tiền Hô. Vì thế, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ. Tóm lại, Mẹ đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho Mẹ niềm vui.

Đức Mẹ đã quên mình ra đi, đem niềm vui cho người khác. Đó cũng là bổn phận của chúng ta. Chúng ta sống với nhau, chúng ta hãy là một ánh bình minh gieo vui nắng ấm tình thương, đức tin, hy vọng cho những người chung quanh, nhất là những người đang gặp u buồn tăm tối. Phải biết vui với người vui, khóc với người khóc. Xin Chúa cho chúng ta, bất cứ đi đâu, đến đâu, gặp ai, họ đều nhận được nơi chúng ta niềm vui.

Trong việc đi thăm và ở lại ba tháng giúp đỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét, chúng ta thấy có năm đặc tính trong đức bác ái của Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ để ý đến nhu cầu của người bà con, để ý đến hoàn cảnh gia đình bà Ê-li-sa-bét cần sự thăm hỏi, giúp đỡ. Thứ hai, dù là chỗ họ hàng, mà chỉ là họ hàng xa, không bó buộc theo phong tục thăm viếng, giúp đỡ, nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình. Bởi vì bác ái thì không phân biệt xa hay gần, thân hay sơ. Thứ ba, Mẹ không quản ngại đường sá xa xôi, nguy hiểm và vất vả. “Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm, nhưng nếu vì bác ái, vì lòng người đã quyết thì khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Đức Mẹ là người đã có tấm lòng như thế. Thứ tư, Mẹ kiên tâm giúp đỡ suốt ba tháng trời. Đó là bác ái cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương bằng lời nói thì có thể bị coi là đầu môi chót lưỡi. Bác ái yêu thương trong lòng thì thiêng liêng vô hình, không cảm nhận được. Nên giúp đỡ, chia sẻ cụ thể là bằng chứng lòng yêu thương rõ ràng nhất. Đức Mẹ đã làm như thế. Thứ năm, Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, nhất là cho Gio-an Tiền Hô, nên Gio-an đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Mẹ đã đem ơn Chúa đến cho người khác.

Đây cũng là bài học Đức Mẹ dạy chúng ta. Vì thế, khi suy niệm mầu nhiệm thăm viếng này, Giáo Hội bảo chúng ta hãy học gương yêu người của Đức Mẹ. Chung quanh chúng ta hay gia đình họ hàng chúng ta có rất nhiều dịp đòi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người đang cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Tóm lại, chúng ta hãy sống với nhau bằng tình người chứ đừng vì lý lẽ này hay lý do nọ, vì bác ái yêu thương thì không có giới hạn hay bất cứ một phân biệt nào.

Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tình liên đới với nhau. Biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta biết chia sẻ và thông cảm với nhau một cách tươi vui, với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính, không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn chúng ta chia sẻ vì những hậu ý đen tối, chẳng hạn như để thỏa mãn cái tôi tự tôn hay tính khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo của chúng ta. Thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình. Không cau có, không tính toán, không miễn cưỡng, vì khi chúng ta vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời”.

Chúng ta không có đủ khả năng hay điều kiện để đáp ứng mọi nhu cầu của anh chị em chung quanh. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ của chúng ta: Những nụ cười cảm thông, những lời nói khuyến khích, những lời hỏi thăm chân tình…đó là những điều ở trong tầm tay của chúng ta. Có những người không cần chúng ta chia sẻ giúp đỡ về tiền bạc vật chất, chỉ cần chúng ta chia sẻ những niềm vui nho nhỏ trên đây.

 

31. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình (Lc 1,56).

“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.

Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…”(Eph 1,3-14).

Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.

Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại, thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.

Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x. St 12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).

Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:

– Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.

– Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?

Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc 1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).

Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.

 

32. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

Anh chị em thân mến.

Nước Việt Nam chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc nghiệt, chính vì thế nên năm nào cũng có những trận bão lụt, khiến cho người người phải vất vã khó khăn hơn. Như vừa qua, cơn bão đã ghé thăm miền trung của chúng ta, cơn bão bất ngờ gây thiệt hại rất nhiều về tài sản và người, khiến cho cả thế giới phải động lòng, tìm mọi phương cách để giúp đỡ những người đang trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta thử suy nghĩ: Nếu người cho mà không có người nhận, thì việc làm của họ sẽ trở nên vô ích. Còn người cho, mà thấy người nhận thật sự cần thiết và đang trong tình trạng chờ đợi, thì việc làm đó mới là một việc làm có ích lợi thật sự, và mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Việc làm này mang lại niềm vui cho cả hai bên, người cho lẫn kẻ nhận: vì người cho thấy mình đang thực hiện một việc làm có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho bao nhiêu người đang cần thiết và chờ đợi. Còn người nhận thì vì tình trạng đang thiếu thốn, đang chờ đợi có người giúp đỡ, để vượt qua được tình trạng khó khăn hiện tại mà mình đang bất lực. Một việc làm mà đem lại niềm vui cho cả hai bên: người cho lẫn kẻ nhận.

Mẹ Maria đã nhận ra điều đó, nhận ra được niềm vui Thiên Chúa mang đến cho mình, đồng thời cũng nhận ra được nhu cầu của người khác đang cần đến niềm vui mà Mẹ đang tận hưởng, nên Mẹ không thể ngồi yên. Mẹ vội vã lên đường đáp ứng nhu cầu cho người khác đang cần đến. Việc phục vụ sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn về hoàn cảnh, địa hình. Nhưng Mẹ vượt qua tất cả, cho dù sức lực yếu đuối, Mẹ cũng vượt qua đồi núi, địa hình hiểm trở, để mang niềm vui cho người cần đến. Người cần cũng biết đón nhận, nên niềm vui được nhân đôi. Chúng ta thấy bà Elisabeth vui mừng vì nhận ra được niềm vui mà bà đang cần thiết và chờ đợi. Bà cũng không thể lặng thinh, bà đã cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ người mang niềm vui bất ngờ đến cho mình. Đó là cách bà biểu lộ niềm vui đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Biết bao người đã từng lãnh nhận, không phải một lần, mà rất nhiều lần những ân huệ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không có được niềm vui, vẫn không tỏ lộ một cử chỉ cảm tạ nào, vẫn không bằng lòng với những gì mình đã nhận được. Cũng có rất nhiều người không bao giờ biết bước chân ra đi, không bao giờ biết mang những gì mình có để tạo niềm vui cho mình và cho người khác. Chính vì thế họ luôn lo sợ, khó chịu và không bao giờ bằng lòng với cuộc sống, vì họ chỉ biết lo cho mình mà không bao giờ dám nhìn thấy nhu cầu của bao người chung quanh, chính vì thế không bao giờ họ có niềm vui. Không muốn cho người khác niềm vui, đó cũng chính là không biết chờ đợi và đón nhận niềm vui.

Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, những người đang lắng nghe, những người đang nhìn thấy những diễn biến của thời đại. Nhưng không biết chúng ta có nghe và thấy được những gì cần thiết hay không? Chúng ta có thấy được nhu cầu của bao người chung quanh, chúng ta có thấy được sự chờ đợi mỏi mòn của những người đang thống khổ để đáp ứng không?

Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng lòng nhân ái để đến với họ và nói lên những lời yêu thương, những lời tha thứ. Họ đang chờ đợi ánh mắt dịu hiền hòa nhã, để họ có được niềm vui trong cuộc sống. Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng đôi tay để cho họ những gì cần thiết. Họ cũng đang chờ đợi những bước chân đi tới của chúng ta, để ban cho họ niềm vui, đồng thời chúng ta cũng nhận được niềm vui, vì thấy mình làm một việc có ý nghĩa. Nếu chúng ta thấy và đáp ứng được những nhu cầu như thế cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã học được bài học của Mẹ Maria là biết đem niềm vui đến cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng học được bài học biết ơn, cảm tạ vì biết đón nhận Hồng Ân Thiên Chúa mà bà Elisabeth đã làm. Thiên Chúa đã đem Hồng Ân đến cho ta rất nhiều, nhưng chúng ta nhận ra được bao nhiêu lần, để biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Những lần nhận được niềm vui bất ngờ, những lần may mắn, đời sống hằng ngày được nhiều điều tốt đẹp, những người chung quanh yêu mến giúp đỡ. Đó là những lần Chúa thăm viếng và mang niềm vui đến cho chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta luôn sáng suốt, nhìn thấy nhu cầu của người chung quanh, để biết đáp ứng và đem niềm vui cho người khác, đồng thời cũng nhận ra được niềm vui mà Thiên Chúa ban cho.

 

home Mục lục Lưu trữ