Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1377619

CÔNG VIỆC

Công việc

Một cơ quan thăm dò dư luận ở phương Tây vừa mới công bố một cuộc điều tra về vấn đề tín ngưỡng tại 15 nước Tây phương, trong đó có Mỹ và Nhật Bản. Kết quả cho thấy Mỹ là nước mà dân chúng mê tín nhất và tin vào Chúa nhiều nhất. Khi hỏi “có tin ở Thượng đế không?” thì 95% người Mỹ trả lời “có”, còn ở Châu Âu là 75% và Nhật Bản là 39%. Cuộc điều tra còn cho thấy phụ nữ tin vào Chúa và ma quỉ nhiều hơn nam giới.

Như thế thì bi quan hay lạc quan? nếu nhìn tổng thể và sâu rộng hơn thì một người Kitô hữu thức thời, có tinh thần trách nhiệm cao, chắc chắn không thể lạc quan về tình hình đạo công giáo trên thế giới ngày nay. Với nhận xét này, chúng ta suy nghĩ thế nào về những gì Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay?

Vẫn biết rằng, khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Chúa Giêsu bị hạn chết trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhớ đến mấy ông quê mùa, dốt nắt phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã trên 6 tỷ người mà mà chỉ có 1 tỷ rưỡi Kitô hữu. Tại sao Chúa Giêsu không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo?

Trước hết, vì hành động với con người nên Chúa phải sử dụng đường lối và phương pháp phù hợp với con người. Nghĩa là với quyển năng Chúa có thể hành động theo cách thức của Ngài, nhưng Ngài không làm vì con người còn phải chịu lệ thuộc vào những điều kiện có giới hạn, đang sinh sống trong một xã hội trần thế lắm ràng buộc, đầy thiếu sót.

Thứ đến, Chúa muốn những kẻ tin theo Ngài phải là những con người có tự do dân chủ, những thợ gặt tình nguyện, chứ không phải là những tên nô lệ hay tù nhân. Do đó, Nước Chúa hay Giáo Hội của Ngài phải là một tập thể bao gồm những phần tử biết làm chủ lấy đời mình để có thể tin tưởng, yêu mến hết tình, chứ không tập hợp những kẻ sợ sệt hay những cái máy vô hồn được điều khiển.

Cuối cùng, Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, khi Chúa Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiện là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.

Nếu mỗi người chúng ta đều hiểu thông suốt được như thế thì chúng ta phải hết sức cảm ơn Chúa vì Ngài dành cho chúng ta cái vinh dự lớn lao là được cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu nhân độ thế. Và nếu ¾ nhân loại ngày nay chưa nhận biết Chúa thì lỗi đó không phải do Chúa kém quyền năng, mà là do mỗi người công giáo chúng ta thiếu trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa trong việc mở mang Nước Chúa, từ chối vinh dự làm con hiếu thảo biết tha thiết đến việc của Cha trên trời. Như thế, sứ mạng truyền giáo là một sứ mạng quan trọng và cấp bách. Cho nên, sứ giả của Chúa phải mau mắn đem Tin mừng đến tận tay người nhận sớm hết sức có thể, không được để vương vãi hay trì trệ dọc đường vì ham việc trần thế hơn việc cứu rỗi anh em. Nói khác đi, người làm việc tông đồ là phải vội. Vội vì Chúa, vội vì phần rỗi của anh em, vội vì thời giờ Chúa ban cho mỗi người quá ngắn ngủi và vô cùng quí giá. Sự nôn nóng này của kẻ làm con Chúa biểu lộ một cuộc tranh đấu quyết liệt với tà thần để cứu cho được các linh hồn về cho Chúa. Do đó, người rao giảng Tin mừng không thể hành động như kiểu của những kẻ ăn không ngồi rồi, của những viên chức ngoại giao viếng thăm rườm rà, của những kẻ trà dư tửu hậu. Trái lại Chúa muốn con cái của Ngài phải nhanh tay lẹ mắt trong công việc cứu rỗi thiêng liêng như con cái thế gian hăng say mưu cầu lợi ích, chớp thời cơ làm giàu cho mình. Cuộc sống, việc làm, mơ ước, tình yêu, giải trí…tất cả đang bủa vây chúng ta khiến chúng ta càng ngày càng sao nhãnh, quên mất phần rỗi của mình và của anh em. Hãy nhớ rằng phần rỗi của ta gắn liền với phần rỗi của anh em. Nếu ta không lo lắng cứu vớt người khác thì chẳng có ai thương tình cứu giúp ta cả.

 

8. Anh em hãy ra đi.

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước.

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.

Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.

Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.

Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép.

Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau.

Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.

Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác.

Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.

Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.

Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.

Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.

Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối.

Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.

Gợi Ý Chia Sẻ

Muốn trở thành tông đồ cho người trẻ hôm nay, theo ý bạn, cần có những điều kiện gì?

Satan và sự ác vẫn hoành hành trên thế giới và trong từng tập thể. Chúng ta phải làm gì để chống lại? Bạn có thấy bóng dáng của Satan trong đời bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

 

9. Mừng vì được ghi danh Nước Trời – Lm. Anmai.

Nhớ lại một cha già trong nhà Dòng, gốc của Ngài là người Huế nên Ngài hay nói với những ai thăm Ngài rằng mỗi người hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa và sống "in như ri". Giọng Huế rất hay với chữ "in như ri". "In như ri" chính là chữ "In ri" (Vua dân Do Thái) được treo trên đầu Chúa Giêsu. Câu nói dí dỏm của Cha già xem ra mà hay đó chứ! Là kitô hữu, phải chăng mỗi người được mời gọi nhìn lên thánh giá Chúa và sống mầu nhiệm ấy.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhiều người đã kinh nghiệm và đã sống mầu nhiệm thánh giá ấy. Một trong những người đã sống mầu nhiệm thánh giá một cách trọn vẹn đó chính là Thánh Phaolô tông đồ. Khẳng định về kinh nghiệm của thánh giá hôm nay chúng ta được nghe Thánh Phaolô tông đồ nhắc lại: "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian".

Chẳng cần phải minh giải nhiều, chẳng phải nói nhiều, những người mang tên là kitô hữu đã biết khá nhiều về con người của Phaolô. Phaolô đã hơn một lần bay nhảy và đã hơn một lần bách hại đạo Chúa Giêsu. Phaolô đã bằng mọi cách diệt cho bằng được nhưng ai xưng mình là kitô hữu. Thế nhưng, sau khi được Thiên Chúa "mở mắt" cho thấy Ngài thì cuộc đời của Phaolô thay đổi hoàn toàn. Cứ đọc lại tất cả các thư của Thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy rõ cảm nghiệm của Ngài về Chúa Giêsu.

Phải nói rằng cuộc đời của Phaolô là một cuộc đời tuyệt vời. Trước khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô sống theo kiểu người đời nhưng khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô đã sống chết với con người mang tên Giêsu đó. Với Phaolô, đâu phải đơn giản để sống chết với Chúa Giêsu vì trước đó Phaolô là người bách hại Chúa. Khi cuộc đời của Phaolô thay đổi 180 độ thì chẳng ai tin được. Người ta đã cho rằng Phaolô là người giả tạo vì trước đó thì bắt Chúa còn sau thì lại rao giảng Tin mừng về con người mà trước đây mình bách hại. Vì Chúa Giêsu, Phaolô đã lội ngược dòng để minh chứng cuộc đời của mình thuộc về Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu - Nước Thiên Chúa lúc nào cũng đối nghịch với thế gian thì phải. Thế gian thì sống bất minh, sống gian tà, sống thiếu sự thật còn Nước Thiên Chúa là nước của sự thật, sự sống vĩnh cửu. Những ai sống vì Nước Thiên Chúa, sống với Nước Thiên Chúa, sống cho Nước Thiên Chúa thì bị người đời thoá mạ và ngược đãi. Không dừng lại ở thoá mạ, ngược đãi mà còn bị loại trừ ra khỏi thế gian này cho rảnh mắt.

Người bị loại ra khỏi thế gian mà ai ai cũng biết đó chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết trước chương trình của Chúa Cha dành cho Ngài và giờ của Ngài phải đến thế gian.

Thật sự ra Chúa Giêsu đã biết trước thế gian như thế nào nhưng vì Thánh ý của Cha nên Ngài vẫn đến. Chúa Giêsu đã đến thật và Ngài đã sống giữa thế gian này. Sống giữa thế gian, dẫu là Con Chí Thánh của Cha trên trời ấy nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ của thế gian dành cho Ngài. Chúa Giêsu là Chúa còn phải đón nhận đau khổ như vậy để rồi môn đệ của Chúa, những người theo Chúa cũng phải sống cái đau khổ như Thầy Chí Thánh đã sống.

Biết trước được những khó khăn ấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các ông: "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! " Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó."

Sau khi nghe lời chỉ bảo của Thầy, các môn đệ đã ra đi và đã trở về và thưa chuyện với Thầy "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." Và rồi, Chúa Giêsu bảo với các môn đệ rằng: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống" Sau đó Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền năng để các ông có thể đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù. Tất cả thế lực của Kẻ Thù bày ra nhưng sẽ không làm được gì các môn đệ cả. Chúa Giêsu còn dặn dò thêm: "Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi".

Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ rằng đừng mừng với cái chuyện quỷ thần khuất phục nhưng hãy vui mừng vì tên của các môn đệ, của những người theo Chúa sẽ được ghi ở Giêrusalem mới, ở Nước Trời. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc không giống như niềm vui của trần gian, của cuộc đời mà nhiều người tìm kiếm, theo đuổi. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc được ngôn sứ Isaia vừa nói qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe:

Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,

hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ,

hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô!

Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,

hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô,

để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,

được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang,

như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.

Vì Đức Chúa phán như sau:

Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả,

và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.

Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,

được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.

Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy;

tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.

Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,

thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.

Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết,

và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù.

Ở trong Giêrusalem Thiên Quốc, ở Thành Đô của Thiên Chúa thì những người yêu mến Thành Đô sẽ vui mừng, sẽ được bình an như trẻ thơ được bú no bầu sữa mẹ và sẽ được nâng niu trên đầu gối, được bồng ẵm bên hông như Mẹ hiền vậy. Khi ở Thành Đô thì những thù địch sẽ bị đẩy lui bởi cơn thịnh nộ của Đức Chúa.

Giêrusalem Thiên Quốc, Nước Trời luôn luôn nghịch lại với thế lực của ma quỷ, của thế gian, của sự ác để rồi những ai muốn vào Giêrusalem Thiên Quốc, muốn vào Nước Trời cũng phải sống như các môn đệ ngày xưa đã sống nghĩa là phải sống như chiên sống giữa sói rừng vậy. Thế nhưng, những ai tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong lòng bàn tay của Thiên Chúa thì tất cả những thế lực của ma quỷ sẽ không làm hại những người tin được. Kinh nghiệm ấy hết sức rõ ràng nơi cuộc đời của những người môn đệ thân tín, của các thánh nam nữ của Thiên Chúa, đặc biệt nơi các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa. Những môn đệ thân tín, các thánh nam nữ của Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa đã bị thế gian cấu xé, nghiền nát nhưng rồi trước mặt Thiên Chúa, các Ngài đã sống hết mình, hết lòng, hết sức, hết trí khôn cho Nước Trời, cho Thành Đô của Thiên Chúa nơi Thiên Quốc.

Chuyện quan trọng của người môn đệ, của người theo Chúa Giêsu đó là làm sao tên của mình được ghi ở trên Trời. Tất cả mọi chuyện, tất cả mọi sự rồi sẽ qua đi mà thôi. Giữa cái lựa chọn Nước Trời và trần gian này không phải là đơn giản, nhiều và nhiều người muốn chạy theo cái thế gian này để bỏ cái vinh quang Nước Trời mà Thiên Chúa mời gọi.

Nguyện xin Thầy Chí Thánh ban thêm ơn, ban thêm sức mạnh và đặc biệt ban thêm quyền năng cho những ai tín thác vào Chúa để rồi nhờ ơn Chúa những người đó có thể chống chõi tất cả những mưu mô của các thần để sau cuộc chiến ở cõi đời này thì những người ấy được vào hưởng nhan Thánh Chúa và được vào hưởng Giêrusalem Thiên Quốc như Chúa đã hứa ban.

 

10. Ra đi loan báo Tin Mừng – An Phong

Tin Mừng Chúa Nhật 14 Thường Niên C là trình thuật Đức Giêsu gởi các môn đệ lên đường sứ vụ... Người sai họ đi như "con chiên ở giữa sói rừng..., đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép... nhưng nói bình an cho nhà này" (Lc 10,4). Người sai họ đi "cứ từng hai người", vì theo luật Do Thái, chứng từ hợp pháp phải dựa trên hai hoặc ba nhân chứng (Đnl 19,15). Trong Giáo hội sơ khai, "cứ từng hai người" như Phaolô và Banaba (Cv 13,2), Banaba và Maccô (Cv 15,39), Phaolô và Sila (Cv 15,40), Timôthê và Sila (Cv 17,4)... đã đi rao giảng Tin mừng với nhau. "Nếu vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì... hãy phủi bụi đất lại..." là một lời cảnh giác cho những ai không đón nhận Tin mừng. Hình ảnh các môn đệ trở về vui mừng và "Satan từ trời rơi xuống như luồng chớp" muốn nói lên việc rao giảng Tin mừng được thành tựu và các ngài đã thắng được Satan.

Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện thiết yếu cho những ai muốn đi rao giảng Tin mừng "không túi tiền, không bao bị, giày dép". Họ phải là những người nghèo khó, khiêm tốn, và thậm chí yếu đuối, để có khả năng tin tưởng và bám víu vào Thiên Chúa. Họ được sai đến những nơi nguy hiểm, thiếu an toàn, nhưng lại nói lời bình an. Cơn cám dỗ về tiện nghi vật chất luôn đe dọa những người đi rao giảng Tin mừng. Cơn cám dỗ về ngại khó vẫn luôn làm những người đi rao giảng Tin mừng chùn bước. Như thế, người đi rao giảng Tin mừng "đừng khoe khoang về điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô" (Gl 6.14).

Hơn thế nữa, "sự bình an của các con sẽ đến trên những ai đón nhận Tin mừng". Người đi rao giảng Tin mừng là người có được sự bình an của Thiên Chúa. Từ đó đem sự bình an này đến cho người khác. Đem đến sự bình an của Thiên Chúa cùng với Nước Thiên Chúa đang đến gần chính là rao giảng Tin mừng. Mọi hình thức áp đặt, đe dọa, "rút phép thông công", những cuộc thánh chiến... sẽ làm tiêu tan sự bình an. Bình an cho nhà này, cho ngôn ngữ, cho phong tục tập quán này, cho các truyền thống, các giá trị, các nghi thức phải là tâm niệm của những người đi rao giảng Tin mừng. Tin mừng cần được hội nhập, được sống trong một nền văn hóa của một dân tộc cụ thể, cùng với những phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc đó. Tin mừng chỉ có thể được đón nhận trong tình yêu và tự do.

Là kitô hữu, nhờ bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta là những người rao giảng Tin mừng cho mọi người chung quanh. Chúng ta được Thiên Chúa gởi đến để đem lại bình an cho người khác. Những người chung quanh chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận sứ điệp của chúng ta, nếu sứ điệp đó được loan báo cách vô vị lợi, nhẹ nhàng, trong tinh thần phục vụ. Chứng từ "cứ từng hai người" là hình ảnh yêu thương lẫn nhau, cộng tác với người khác, không ghen tương hay thành kiến, là một chứng từ mạnh mẽ, có giá trị làm cho Tin mừng dễ được đón nhận. Các kitô gữu đầu tiên tại Antiôkia đã từng gây ấn tượng tốt đẹp cho cư dân tại đó bằng nếp sống đoàn kết yêu thương nhau, khiến cư dân tại đó đã phải thốt lên "Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao". Vào thời bách hại đạo tại Việt Nam, cha ông chúng ta đã được những người chung quanh gọi là "những người theo đạo yêu nhau". Những chứng từ như thế có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn là "văn hay chữ tốt".

Khi phải đối diện với những bất an toàn của cuộc sống, chứng từ lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng là một lời rao giảng tốt đẹp.

Phải chăng chúng ta đang rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ của mình?

Lạy Chúa,

ngày nay trên thế giới

còn nhiều người chưa đón nhận Tin mừng.

Chúng con xin Chúa gởi đến

những người rao giảng Tin mừng

đầy lòng yêu thương, nhiệt tâm tông đồ.

Xin cho chúng con trở nên những chứng nhân Tin mừng

bằng đời sống của mình.

 

11. Đoàn kết

“Bấy giờ Chúa Giêsu sai các ông đi, cứ từng hai người một”.

Ngày xưa, khi có dịp tiếp xúc với các vị giáo sư ngoại quốc, có lần tôi đã hỏi họ nghĩ gì về các sinh viên Việt Nam? Và họ đã trả lời:

- Nếu xét về phương diện làm việc cá nhân, một sinh viên Việt Nam thường giỏi hơn một sinh viên những nước khác. Thế nhưng, nếu xét về phương diện làm việc tập thể,  một nhóm sinh viên Việt Nam lại thua xa một nhóm sinh viên những nước khác.

Lời nhận xét này đã làm cho tôi suy nghĩ. Sở dĩ như vậy là vì sinh viên Việt Nam thiếu tinh thần cộng tác và đoàn kết với nhau.

Từ đó, chúng ta nhận thấy sự chia rẽ và phân hóa dường như là một căn bệnh đã thấm sậu vào đầu óc của người dân Việt Nam.

Đó cũng là điều dễ hiểu, bởi vì sống dưới những chế độ nô lệ khắc nghiệt, “ một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày”, người ta luôn nghi ngờ, không còn tin tưởng vào nhau và nhiều khi sự giả dối đã trở nên như một vũ khí tự vệ của kẻ yếu trước người mạnh. Phải luồn lách, phải khôn lỏi thì mới được sống còn.

Căn bệnh chia rẽ và thiếu cộng tác này đã xuất hiện trên nhiều lãnh vực.

Trước hết, trên lãnh vực quốc gia. Chúng ta không có được những công trình kiến trúc qui mô đòi hỏi một thời gian xây dựng lâu dài. Chúng ta cũng không có những công trình văn hóa đồ sộ, đòi phải có nhiều người cộng tác để cùng nghiên cứu và biên soạn chẳng hạn như một quyển bách khoa tự điển…Chúng ta có đoàn kết, thì mới chỉ đoàn kết trong chiến tranh, còn một khi hòa bình trở về, chúng ta lại chia rẽ trong việc xây dựng đất nước: nào nam bắc, nào già trẻ, nào bè phái và phe nhóm…

Tiếp đến, trên lãnh vực xã hội. Chúng ta cũng thiếu tin tưởng và cộng tác với nhau. Một công ty, một xí nghiệp mới được thành lập thật tốt đẹp, nhưng rồi chỉ một thời gian sau liền sụp đổ không kèn không trống, chỉ vì người ta đã gian lận, đã chấm mút, đã biển thủ công quỹ..

Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta cũng ghi nhận được những mầm mống chia rẽ và phân hóa. Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể là chính giáo xứ của chúng ta. Ôn lại lịch sử  từ khi thành lập cho đến nay, chúng ta phải chua xót mà nhận ra rằng đã có những biến cố không mấy tốt đẹp xảy ra: nào địa phận nọ và địa phận kia, nào vùng này vùng khác…

Sự chia rẽ và phân hóa cũng có mặt trong chính gia đình, một cộng đồng tình yêu vừa nhỏ bé lại vừa lý tưởng nhất, để rồi đã xảy ra những cãi vã, những đánh đập, như tục ngữ đã bảo:

- Chồng giận, vợ giận thì dùi nó quăng.

Từ những sự kiện ấy, chúng ta đi vào chủ đích của Chúa Giêsu khi Ngài sai phái các môn đệ cứ từng hai người một, là để các ông hiệp lực và cộng tác với nhau.

Vậy sự cộng tác sẽ đem lại những hậu quả nào?

Trước hết, đó là sự sáng suốt.

Thực vậy,  có một câu danh ngôn đã bảo:

- Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.

Cái nhìn của người trong cuộc thường chủ quan và phiến diện, nhưng cái nhìn của người ngoài cuộc sẽ vô tư và khách quan hơn, như tục ngữ cũng đã bảo:

- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.

Tiếp đến, đó là sức mạnh.

Thực vậy, tục ngữ Việt Nam đã bảo:

- Một cây làm chẳng nên non,

  Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

- Hợp quần gạy sức mạnh.

Tự sức riêng, có nhiều việc chúng ta không thể nào làm nổi vì thiếu phương tiện, thiếu khả năng…Nhưng nếu được nhiều người cộng tác, chắc chắn công việc sẽ tiến triển một cách mau chóng và đem lại những thành quả tốt đẹp, như một câu danh ngôn đã xác quyết:

- Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay.

Hơn thế nữa, thân phận của người tông đồ là thân phận của một con chiên giữa bày lang sói, nếu biết cộng tác với nhau, chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn và thử thách. Bẻ một chiếc đũa thì dễ, chứ bẻ cả một bó đũa thì rất khó.

Sau cùng, đó là sự an ủi khích lệ trong những lúc mệt mỏi và chán nản, đồng thời nhờ kinh nghiệm của người khác, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp thu những cái hay cái đẹp.

Thực vậy, tục ngữ cũng cho hay:

- Học thày không tày học bạn.

Nhờ tinh thần ganh đua, chúng ta sẽ tiến mau và tiến mạnh, bởi vì:

- Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly.

Hay như thánh Augustinô cũng đã nói:

- Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?

Ngoài ra, nhờ tình yêu thương trong sự cộng tác chân thành, chúng ta sẽ dễ  đem Chúa đến cho người khác, bởi vì lúc bấy giờ họ sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi mỗi chúng ta.

Và như vậy, chính sự đoàn kết và cộng tác  sẽ là phương tiện đem lại hậu quả tốt cho việc tông  đồ:

- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.

Hơn bao giờ hết, tình thương và sự cộng tác là điều kiện cần thiết cho người tông đồ hôm nay, bởi vì:

- Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

 

12. Bình an – Lm. GB. Trần Văn Hào

Quà tặng của các môn đệ Đức Giêsu trong hành trình truyền giáo.

Bình an chính là ân ban của Thần Khí, là quà tặng ý nghĩa nhất mà Đức Giêsu đem đến cho các Tông Đồ trong ngày Phục sinh. Giáo hội hằng ngày vẫn dâng lên Chúa lời cầu nguyện xin ơn bình an mỗi khi cử hành Thánh lễ. Cả ba bài đọc Lời Chúa hôm nay cũng nói về sự bình an, là ân ban Thiên Chúa đem đến cho nhân loại trong thời kỳ thiên sai (bài đọc 1), là món quà mà Thánh Phaolô đã trải nghiệm cùng với Lòng Thương xót Chúa (bài đọc 2), và cũng là hành trang các Tông đồ đem theo trong hành trình truyền giáo (bài Tin mừng).

Ơn Bình an được ban tặng như thế nào?

Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia tiên báo rằng, ơn ‘thái bình’ được tuôn đổ xuống thành đô Giêrusalem tựa dòng sông cả (Is 66,10-14). Vị ngôn sứ phóng tầm nhìn về kỷ nguyên mới, lúc Đức Chúa Giavê thực hiện ơn cứu độ một cách sung mãn. “Này Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, được nâng niu trên đầu gối”. Đây là thời thiên sai, lúc Đức Chúa biểu dương quyền lực và tình thương của Ngài. Trong cái nhìn thần học, ơn bình an này không chỉ khép kín trong ý niệm về một thế giới im tiếng súng, vắng tiếng đạn, nhưng bình an mà Thiên Chúa ban tặng chính là đỉnh cao của ân phúc khi Thiên Chúa ra tay cứu độ dân Ngài. Cũng tương tự như thế, Thánh Phaolô cầu chúc cho cộng đoàn Galát được hưởng sự bình an và lòng thương xót Chúa. Ngài mang kinh nghiệm của chính bản thân để mời gọi cộng đoàn đón nhận ơn bình an này, đó là phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thập giá. “Nhờ Thập giá của Đức Giêsu, thế gian đã bị đóng đinh vào Thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.Vì tôi mang trong mình dấu tích của Đức Giêsu”. Như vậy trong thời kỳ ân điển của Thần Khí, Đức Giêsu đấng bị đóng đinh đã sống lại, sẽ phủ lên thế giới này ngập tràn sự bình an, là quà tặng cao quý nhất mà Thiên Chúa đem đến nhờ Thánh Thần. Thánh Phaolô còn nói rõ hơn trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an (Rm 8,66).

Như thế, chúng ta phải hiểu ơn bình an mà phụng vụ hôm nay nói tới trong cái nhìn Kitô học. Đây là quà tặng gắn kết với mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh mà Thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Sau khi Đức Giêsu sống lại, Ngài hiện ra với các tông đồ, cho thấy các dấu tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài. Sau đó, Chúa thổi hơi tuôn đổ Thần khí và ban bình an cho các ông (Ga, 20,22; Mt 28,16-20).

Cũng vậy, trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi thực tập truyền giáo. Ngài dặn các ông: “Khi vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy, bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em (Lc 10,5-6).

Như vậy, bình an trước hết là quà tặng đến từ Thiên Chúa và ơn bình an được ban xuống luôn kèm theo những điều kiện cần thiết.

Điều kiện để hưởng bình an.

Sống trong một thế giới mà chiến tranh lúc nào cũng như sắp sửa xảy ra, người ta cảm thấy lo sợ. Vì thế, sau đệ nhị thế chiến, các quốc gia trên khắp thế giới phải ngồi lại để bàn thảo những phương thế cổ xúy cho hòa bình. Tổ chức Liên Hợp Quốc được hình thành từ đó và 6 quốc gia được bầu chọn làm “Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc”. Trong phiên họp đầu tiên, ông Krouchev, tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô đã sừng sỏ chỉ tay vào vị đại diện Tòa Thánh tại bàn hội nghị và sẵng giọng nói: “Giáo Hoàng của các ông có trong tay bao nhiêu sư đoàn, mà dám cho người đại diện đến đây để bàn về hòa bình với chúng tôi”.

Người ta vẫn thường nghĩ rằng, bình an là một món hàng có thể sắm bằng sức mạnh quân sự, mua bằng đô-la hay dầu hỏa. Nhưng đối với Đức Giêsu thì không phải vậy. Hòa bình hay bình an đích thực chỉ có được khi chúng ta biết sống theo hướng đi của Thần khí. Đó là Thần Khí của Chân lý, của Sự thật, không có gian dối hay lừa lọc, không có bạo lực hay giết chóc, không oán thù hay ghét ghen. Vì vậy, để huấn luyện các môn đệ, Ngài sai các ông đi thực tập truyền giáo với quà tặng bình an. Quà tặng này đi kèm theo điều kiện là ‘không mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép…’, tức là sống tinh thần nghèo khó một cách triệt để. Chúng ta vẫn thường hát lên ‘Kinh hòa bình’, lời kinh của Thánh Phanxicô Assisi, sứ giả của bình an, và Ngài cũng là khuôn mẫu cho chúng ta về tinh thần nghèo khó phúc âm.

Kết luận

Khi Chúa Giêsu giáng sinh, các Thiên Thần ca hát vang trời: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Những người thiện tâm và hưởng nhận ơn bình an đầu tiên ấy chính là các mục đồng, những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng nghèo xơ nghèo xác, những con người thấp kém và bị quên lãng trong xã hội thời bấy giờ. Cũng vậy, Chúa sai các môn đệ đi truyền giáo để ban bình an, đồng thời Ngài đòi hỏi các ông phải sống thật thanh thoát trong tinh thần khó nghèo, cắt đứt mọi dính bén trần thế. Điều Chúa đòi hỏi cũng là thách đố đối với chúng ta hôm nay, khi đang sống giữa một thế giới duy vật, thượng tôn chủ nghĩa hưởng thụ và chạy theo của cải vật chất. Còn chúng ta, chúng ta chọn cuộc sống phú túc giàu sang hay chọn bình an mà Thiên Chúa ban tặng?

 

home Mục lục Lưu trữ