Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 40
Tổng truy cập: 1378559
CÙNG NGƯ PHỦ PHÊRÔ RA KHƠI
Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi – AM. Trần Bình An
Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18 m.Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu "không thể chìm".
Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)
Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.
Con Thuyền Thánh Hóa
Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.
Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.
Con Thuyền Tình Yêu
Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.
Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.
Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)
Con Thuyền phục vụ
Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)
Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.
“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)
Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.
Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)
Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.
Con Thuyền Thánh Hóa
Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.
Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.
Con Thuyền Tình Yêu
Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.
Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.
Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)
Con Thuyền phục vụ
Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)
Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.
“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)
Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.
10. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan
CHÚA GIÊSU PHỤC SINH ĐI CHỌN MỘT NGƯỜI CHĂN DẮT CHIÊN CỦA CHÚA
Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:
Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.
Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.
Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’
Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.
Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.
Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.
Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.
Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).
Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.
Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).
Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.
Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.
Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.
Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.
Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.
Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.
Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.
Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)
Nội dung câu trả lời thâu tóm câu chuyện của thánh Phêrô.
Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:
Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.
Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.
Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’
Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.
Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.
Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.
Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.
Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).
Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.
Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).
Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.
Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.
Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.
Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.
Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.
Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.
Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.
Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)
Nội dung câu trả lời thâu tóm câu chuyện của thánh Phêrô.
11. Mẻ cá
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.
Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.
Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.
Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.
Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.
Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.
12. Suy niệm của Lm. Jos. Vũ Mộng Thơ
CHÚNG TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CÁC LỜI ĐÓ CÙNG VỚI THÁNH THẦN
Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".
- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.
- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.
Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.
Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".
- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.
- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.
Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.
13. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh cá nhưng thức suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Sáng ra, CG đến gặp các ông, kêu các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông làm theo lời Chúa và kéo lưới lên bắt được rất nhiều cá, nhiều đến mức kéo lưới lên không nổi. Cuộc đời của mỗi người chúng ta xem như một chuyến đi trên biển trong đêm, những ai có Chúa Giêsu trong đời sống đạo của mình, người đó có một chuyến đi thành công, một cuộc đời thành công.
Tôi đang ở Chủng viện Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.
Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ Chúa Giêsu, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của Chúa Giêsu giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà Tin Mừng hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.
Vậy thì tại sao có Chúa Giêsu trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.
Thực hành Lời Chúa hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày Thiên Chúa trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.
Tôi đang ở Chủng viện Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.
Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ Chúa Giêsu, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của Chúa Giêsu giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà Tin Mừng hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.
Vậy thì tại sao có Chúa Giêsu trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.
Thực hành Lời Chúa hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày Thiên Chúa trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.
14. Sứ mạng phục vụ - Cố Lm Hồng Phúc
Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!
Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.
Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.
Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.
Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…
Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.
Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.
Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.
Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.
Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…
Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.
15. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Trong bữa ăn thân mật tình thầy trò, Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô và các môn đệ một sứ vụ mới đó là ra đi rao truyền Tin mừng cho muôn dân.
Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. Chúa Giêsu bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói "Chúa đó" (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.
Sau khi ăn xong Chúa Giêsu bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa Chúa Giêsu hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: "Lãnh đạo toàn thể Giáo hội".Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.
Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.
Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.
Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. Chúa Giêsu bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói "Chúa đó" (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.
Sau khi ăn xong Chúa Giêsu bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa Chúa Giêsu hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: "Lãnh đạo toàn thể Giáo hội".Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.
Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.
Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.
16. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến! Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình. Chúng ta cứ khăn khăn trong lập trường đó, chúng ta nghĩ rằng, mình phải làm như thế này mới đúng cách, làm thế kia mới đúng kỹ thuật, đúng khoa học, nhưng nhiều lúc chúng ta cũng bị thất bại thật ê chề.Thái độ quá tự tin đó khiến ta không còn biết đón nhận sự góp ý, sự soi sáng của người khác, nó khiến ta không còn tin, không còn cậy trông phó thác vào ai cả, chỉ cậy dựa vào tài ba của mình mà quên đi cả Chúa nữa. Sự vâng lời Chúa Giêsu nơi các tông đồ hôm nay giúp ta nhận ra bản tính thấp hèn yếu kém của con người chúng ta.
Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.
Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì "không có Thầy, các con chẳng làm được gì".Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.
Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.
Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì "không có Thầy, các con chẳng làm được gì".Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam