Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1378336

Đã mãn

Đã mãn

Để chuẩn bị chịu phép Thêm sức, các em thanh thiếu niên phải thiện nguyện tham gia những việc bác ái như giúp đỡ những người già yếu, tham gia vào việc xã hội của cộng đoàn… Sau khi làm công tác, các em họp nhau lại để chia sẻ cảm nghiệm. Có một em đã kể câu chuyện giúp đỡ một bà cụ từ siêu thị Kmart về nhà như sau:

Sáng Chúa nhật em ra ngoài tiệm Kmart, gặp một bà cụ đang khệ nệ với hai túi xách tay nặng những hàng hóa mới mua. Bà cụ chỉ có một mình, vất vả với hai túi xách tay cồng kềnh, và cứ đi được ít bước phải dừng lại nghỉ ngơi, em liền đến xin giúp đỡ. Bà vui vẻ thuận lời ngay. Nhận thấy hai túi đồ hơi nặng, em hỏi bà: “Nhà bà có xa lắm không?” bà trả lời: “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!”

Lúc đầu em cảm thấy OK, sau một lúc em hơi mỏi tay. Hai bà cháu đã đi bộ qua được vài khu phố. Hai cánh tay em bắt đầu ê ẩm nhưng vì tự ái em không muốn nghỉ dọc đường. Tuy vậy, em cứ luôn miệng hỏi bà cụ xem đã về gần đến nhà chưa. Mỗi lần hỏi, bà đều trả lời: “Không xa lắm đâu, gần tới rồi!” Sau cùng bà quẹo vào một con đường nhỏ. Em mừng rỡ hỏi: “Phải khu phố này không?” “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” Bà trả lời.

Bà và em lại bước đi thêm mấy khu phố nữa. Những bước chân chậm chạp, nặng nề và đầy nỗ lực. Các ngón tay của em đã đau và tê cóng lại. Sau cùng bà cụ dẫn em vào một cái building cho mướn, chừng 5 hay 6 lầu. “Bà ở lầu mấy?” Em hỏi bà cụ. Bà lại trả lời, “Không xa lắm đâu, mấy bước ấy mà!” Hai bà cháu lại lết thết bước lên từng lầu một. Tại mỗi lầu, em đều hỏi xem có phải bà ở lầu này không. Sau cùng thì lên đến lầu thứ 5. Em chia sẻ rằng em cảm thấy công việc bác ái từ thiện của em giống như một cuộc mạo hiểm leo lên núi! Cái khoảng cách bà cụ nói rằng “Không xa lắm đâu, ở cuối đường kia thôi!” đã làm em kiệt sức!

Tôi không thể tránh được sự nghi ngại rằng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, có cái gì đó giống như bà cụ: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Và thánh Phaolô trong bài đọc II cũng đã kêu gọi giáo dân Côrintô rằng: “Thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có…” À há! Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã nói như thế cách đây đã hơn 2000 năm rồi, và bây giờ cũng vẫn chờ đợi mãi!

Có phải rằng thời gian của Chúa khác với thời gian tính của con người không? Trong thơ thứ hai của thánh Phêrô cũng đã cắt nghĩa rằng: “Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”. Tại sao Chúa Giêsu nói rằng thời giờ đã mãn mà vẫn cứ phải chờ đợi?

Vương Quốc Thiên Chúa giữ một vai trò quan trọng trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Thánh Maccô dùng từ “Vương Quốc Thiên Chúa”, nhưng thánh Matthêu lại dùng từ “Vương Quốc Trên Trời”, theo như ngôn ngữ của các thầy Rabbi Do Thái đương thời. Thực ra cả hai từ đều đồng nghĩa với nhau.

Trong Phúc âm Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn khác nhau để công bố và diễn tả Vương Quốc của Ngài. Nó sẽ tăng trưởng giống như hạt cải, hạt giống được gieo xuống đất, trở thành một cây to lớn, ở đó mọi chim trời sẽ đến làm tổ. Nó sẽ nâng thế giới lên như men trong bột, và có thể được coi như một thực tại vô hình, nhưng đang hiện diện. Nó ẩn hiện giống như lúa lẫn lộn với cỏ lùng trong một cánh đồng, hay ở chính giữa “đàn chiên nhỏ bé” đã lãnh nhận nó.

Vương Quốc có thể là Giáo Hội được xây dựng trên Phêrô. Đó cũng là ân sủng tuyệt hảo của Thiên Chúa ban do làng nhân lành của Ngài qua dụ ngôn thợ làm vườn nho, hoặc người ta phải sở đắc bằng tất cả những gì họ có, hay được ban cho ai có tâm hồn khó nghèo, có thái độ bé thơ, tích cực tìm kiếm sự công chính, chịu đựng những sự bách hại, chu toàn thánh ý Chúa Cha, và có tình yêu thương huynh đệ. Muốn vào được Vương Quốc không phải ai cũng có thể vào được, nhưng phải chu toàn những đòi hỏi, có kẻ bị đuổi ra ngoài vì không mặc áo cưới. Theo nguyên tắc phải hoán cải và tỉnh thức.

“Vương Quốc Thiên Chúa” là một từ với rất nhiều ý nghĩa. Một ảnh hưởng thấm nhập vào tâm khảm con người để con người trở nên một với Thiên Chúa. Đó là ân sủng và sự hiện diện của Thiên Chúa nơi các tâm hồn. Một nơi mà tình yêu Thiên Chúa cai trị trong trái tim của ta.

Trong những trang nhật ký của bà Elaine M. Prevallet trích từ “Occasional Journal” có đoạn như sau:

“Vương Quốc Thiên Chúa ở trong chúng ta, ở giữa chúng ta, ở trong sức mạnh của chúng ta, nó có sẵn đó cho chúng ta. Nó có thể bị lôi kéo ra khỏi chúng ta, và chúng ta có thể lấy nó ra khỏi những người khác… Chữ “Vương Quốc” chỉ về một tiến trình phát triển của tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống của con người”.

“Vương Quốc ở trong tôi khi tôi có an bình, khi tôi giữ phẩm giá của mình, khi tôi biết mình là quý giá trong ánh mắt Chúa, khi tôi sống thẳng thắn với nhân quyền, khi tôi biết đón nhận và dùng tài năng, khi tôi có thể cảm tạ Chúa vì đời mình.

Vương Quốc không ở trong tôi khi tôi sợ hãi, khi tôi đầy mặc cảm tội lỗi, khi tôi mất niềm tin, khi tôi bị khinh thường, khi tôi không biết kính trọng mình, khi tôi nghĩ mình là xấu.

Vương Quốc ở giữa chúng ta khi chúng ta cư xử với mọi người như anh chị em, khi chúng ta có thể tha thứ, khi chúng ta nhân ái với mọi người, khi chúng ta chân thành trong các liên hệ, khi chúng ta làm việc cho an hòa, khi chúng ta chỉ ước ao làm điều tốt.

Vương Quốc không ở giữa chúng ta khi chúng ta muốn khống chế người khác, khi chúng ta chất đầy những tư tưởng báo thù, khi chúng ta lạm dụng tình yêu và sự tin tưởng của người khác, khi chúng ta không thành thật trong các tương quan, khi có sự chia rẽ trong gia đình, khi chúng ta tạo ra đau khổ và ghen tương.

Vương Quốc ở xung quanh chúng ta khi chúng ta đoàn kết với nhau, khi chúng ta nhìn thẳng vào cuộc sống, khi chúng ta dấn thân, khi chúng ta phấn đấu trong kiên nhẫn và vui sướng, khi chúng ta mời người khác cùng xây dựng, khi chúng ta cảm tạ Chúa vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, trong gia đình và cộng đoàn chúng ta.

Vương Quốc không ở xung quanh chúng ta khi chúng ta bị chia rẽ và phân tán, khi chúng ta mù quáng đối với những vấn đề phải giải quyết, khi chúng ta không muốn biết, khi chúng ta đầu hàng trong tuyệt vọng, khi chúng ta làm nản lòng người khác, khi chúng ta đổ thừa cho Chúa”.

Vương Quốc Thiên Chúa đã hiện diện đầy đủ và sung mãn nơi chúng ta, nhưng chúng ta không nhận ra là vì trong chúng ta và thế giới này còn đầy tội lỗi và bất công. Chúng ta chưa hoán cải và tỉnh thức như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Giờ đây trên Internet tôi nhận được một bản thống kê về sự chênh lệch và bất công trên thế giới. Nếu dân số thế giới được thu hẹp lại với cùng một tỷ lệ tương tự vào một ngôi làng nhỏ chỉ có 100 người, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh như sau:

Có 57 người Á Châu, 21 người Âu Châu, 14 người từ cực Nam Bắc, 8 người Phi Châu.

30 người là da trắng; 70 người không phải da trắng.

30 người là Kitô hữu; 70 người không phải là Kitô hữu.

50/o của cải trên thế giới ở trong tay 6 người và 6 người này là công dân Hoa Kỳ.

70 người không biết đọc.

50 người thiếu ăn, bị suy dinh dưỡng.

80 người không nhà không cửa, hoặc nơi ở thiếu tiêu chuẩn.

Chỉ có một người tốt nghiệp đại học mà thôi!

Cải thiện đời sống, xóa bỏ bất công, tránh xa tội lỗi là những lời kêu gọi thúc dục cấp bách của Tin Mừng để giúp nhận ra sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa.

William Barclay đã giải thích lời Chúa Giêsu kêu gọi sám hối như sau: “Chữ sám hối theo từ ngữ Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là một sự thay đổi của tâm trí. Chúng ta thường lẫn lộn hai điều: hối tiếc vì những hậu quả của tội lỗi và hối hận vì tội. Nhiều người rất ân hận vì sự rối loạn do tội lỗi gây ra cho họ, nhưng chính họ lại biết rõ ràng rằng, nếu có thể thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi, họ cũng sẽ phạm lại y như vậy.

Sám hối thực sự có nghĩa là một người không chỉ ân hận vì những hậu quả của tội mình, nhưng phải tiến tới việc ghét bỏ chính tội lỗi nữa. Xưa kia, Montaigne, một nhà khôn ngoan đã viết trong cuốn tự thuật rằng, “Trẻ em nên được dạy dỗ phải ghét bỏ tật xấu vì chính sự cấu tạo của nó, các em sẽ không chỉ tránh né trong hành động, mà còn phải chê ghét nó trong tâm hồn tới nỗi chỉ một tư tưởng về nó thôi cũng đủ làm cho ghê tởm”. Sám hối có nghĩa là phải ghét tội vì chính sự tội tỗi của nó”.

Sách Giáo lý Công giáo khuyên chúng ta: “Nhưng trong cuộc lữ hành của mình, Giáo Hội đã kinh nghiệm về “quãng cách giữa sứ điệp mình phải công bố và sự yếu đuối của những con người được ủy thác Phúc âm này”. Vậy phải tiến bước trên con đường “của sám hối và của đổi mới…”

Vương Quốc Thiên Chúa chính là ân sủng của Thiên Chúa đã hiện diện ở giữa chúng ta để giúp chúng ta chiến đấu với tội lỗi. Bổn phận của chúng ta là hòa hợp hành động của mình với hành động của Thiên Chúa. Khi chúng ta hòa nhịp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nghiệm được Nước Thiên Chúa. Mỗi giây phút hiện hữu trên cuộc đời là một cơ hội cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài.

 

30. Mãnh lực của niềm tin - Lm. Minh Vận, CMC

Cựu Hoàng Edward VIII của Anh Quốc, vào năm 1936 khi còn đang trên ngai Hoàng Đế nước Anh, bỗng ông si mê một thiếu phụ thuộc hàng thứ dân, đã một lần bà ly dị chồng.

Theo luật Anh Quốc, thì nhà Vua không được phép cưới một người đàn bà như thế, vì là điều xỉ nhục cho quốc thể. Bởi đó, nhà Vua phải chọn một trong hai con đường:

1. Phải bỏ mối si tình đó, nếu còn muốn là Hoàng Đế cai trị Anh Quốc.

2. Nếu muốn được yêu đương tự do thì phải bỏ ngôi vị Hoàng Đế, trở thành một người thứ dân.

Chỉ vì muốn đáp tiếng gọi của ái tình, Cựu Hoàng Edward đã chọn con đường thứ hai, trả lại cho Anh Quốc uy quyền và mọi danh vọng, để được cùng người yêu sang Pháp Quốc, sống cuộc đời bình thường như mọi người công dân khác.

Thế rồi, vào 1972 Cựu Hoàng Edward bỗng lâm bệnh nặng. Vừa được tin này, Nữ Hoàng Elizabeth là cháu của ông đang cai trị Anh Quốc, vội vàng từ Luân Đôn bay thẳng sang Paris, xin vào thăm bác của bà, nhưng Cựu Hoàng Edward nhất mực từ chối. Sau vì Nữ Hoàng năn nỉ mãi, nên ông đã đòi một điều kiện là: Nếu bà muốn được vào thăm ông, thì phải phong cho người yêu của ông trở thành hàng công chúa, để người yêu của ông được nở mày nở mặt với đời, không còn bị người đời mỉa mai là hạng đàn bà thứ dân.

Vì tình huyết nhục, Nữ Hoàng Elizabeth đành phải chấp nhận điều kiện để ông được toại nguyện. Thế là ông vui sướng đến độ ngất xỉu, rồi chết luôn ngày 28 tháng 5 năm 1972. Cựu Hoàng Edward VIII chỉ vì muốn được tự do theo tiếng gọi của ái tình, ông đã đành bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang danh vọng; nhưng rồi lại cũng chỉ vì muốn danh vọng cho người yêu của ông, mà ông đã vui sướng đến chết đi vì danh vọng. Thật là điên khùng!

Bài sách tiên tri Jona chúng ta vừa nghe, cho chúng ta thấy mãnh lực của niềm tin tưởng và lòng yêu mến vâng nghe Lời Chúa. Tiên tri Jona vừa công bố lệnh Chúa truyền: " Chỉ còn bốn mươi ngày nữa, thành Ninive sẽ bị phá hủy". Khi nghe tin đó, chính nhà Vua đã lià bỏ ngai vàng, cởi áo cầm bào, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Khắp nơi trong thành Ninive, người ta tuân theo sắc lệnh của nhà Vua và triều đình: Mọi người lớn bé, già trẻ, cả chiên bò, súc vật đều không được ăn uống của gì; lại cả người lẫn súc vật đều phải cuốn bao bố. Mọi người đều khẩn cầu cùng Chúa, quyết tâm cải thiện đời sống, tẩy trừ gian ác, xin Chúa nguôi giận và tha thứ tội lỗi cho dân.

Quả thật, Chúa đã thấy họ thực tâm sám hối cải thiện đời sống, chừa bỏ tội lỗi, Chúa liền động lòng thương xót không thi hành việc giáng họa, tiêu diệt thành Ninivê, như lời Người đe phạt. Đó là kết quả của niềm tin tưởng và lòng yêu mến.

Bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại, sau khi Gioan Tiền Hô bị tống ngục, Chúa Giêsu đến xứ Galilea và rao giảng rằng: " Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Thế rồi, đi dọc theo bờ biển, Người gặp Simon và Andrê đang thả lưới, Người phán bảo hai anh em: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Chúa. Đi một chút nữa, Chúa lại gặp Gioan và Giacôbê là hai con ông Giebeđê đang xếp lưới, Người cũng gọi họ. Lập tức hai anh em cũng từ bỏ thân phụ và các người làm công để đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu.

Các vị này đã dứt khoát bỏ mọi sự, để dấn thân theo Chúa ngay, cũng chỉ vì niềm tin tưởng và lòng mến yêu đặt nơi Đấng đã kêu gọi họ. Chính niềm tin tưởng lòng yêu mến đó, còn có mãnh lực đến nỗi, đã làm cho các ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, cùng với Chúa đi khắp đó đây để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân; rồi cuối cùng, các ngài đều sung sướng được chịu chết, để minh chứng niềm tin yêu nơi Chúa, như tiểu sử các ngài đã từng ghi nhận:

Thánh Phêrô sau những năm theo Chúa rao giảng Tin Mừng, làm việc ngày đêm, long đong vất vả, trốn tránh ngược xuôi, ra tù vào khám. Ngài đã rảo khắp miền Anitoche và vùng Tiểu Á thực thi sứ mạng Chúa ủy thác dù phải gặp biết bao gian truân. Cuối cùng, ngài đã phải lãnh án tử hình thập giá; nhưng ngài đã xin được đóng đinh ngược đầu xuống, để tôn kính Chúa và để người ta khỏi lầm tưởng ngài với Thầy Chí Thánh mình.

Cũng vậy, Thánh Andrê cũng chịu đóng đinh trên thập giá suốt hai ngày trời, sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng và ca tụng Thầy Chí Thánh trước mặt muôn người.

Thánh Giacôbê thì bị dân chúng xua đuổi hết thành này đến thành khác, nếm đủ mùi khổ thống. Cuối cùng, ngài đã bị chém đầu để chứng minh cho Thầy mình.

Cùng một số phận, Thánh Gioan Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt, được Chúa trao sứ mạng phụng dưỡng Mẹ Maria; và sau cuộc đời gian khổ vì Tin Mừng, ngài đã bị quảng vào vạc dầu sôi, chịu chết để minh chứng cho niềm tin yêu và lòng trung thành của ngài với Đấng ngài yêu mến.

Để minh chứng niềm tin yêu của chúng ta nơi Chúa, chúng ta đã làm gì? Chỉ một tiếng gọi của ái tình, được thỏa mãn lòng si mê một người đàn bà thứ dân, Cựu Hoàng Edward đã sẵn sàng từ bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang phú quí triều đình Anh Quốc.

Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ nào khi nghe lời thống thiết Chúa kêu gọi: " Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", để được hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời trong Nước Thiên Chúa?

Chúng ta hãy noi theo gương dân thành Ninive, cấp bách đáp lời tiên tri Giona kêu gọi bỏ đàng tội lỗi, sám hối cải thiện đời sống, để đáng được Chúa thương ban ơn tha thứ.

Chúng ta hãy mau mắn đáp lại Lời Chúa mời gọi: " Hãy theo Cha" và hãy anh dũng dấn thân theo Chúa, trung kiên thực thi sứ mạng tông đồ, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, và nếu cần sẵn sàng hiến cả mạng sống mình, để minh chứng niềm tin yêu nơi Đấng đã yêu thương kêu gọi chúng ta, theo gương các Thánh Tông Đồ đã chịu chết vì Thầy mình.

Chúng ta hãy sống niềm tin vào tinh thần Tin Mừng, vào những giáo huấn của Chúa và những lời dạy dỗ của Giáo Hội như Chúa và Giáo Hội đã kêu gọi.

Kết Luận

Chớ gì chúng ta luôn có tâm hồn ngoan thảo thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin chỉ bảo cho chúng con biết đường lối Chúa. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và biết can đảm, anh dũng dấn thân sống Lời Chúa, để chúng con cũng được Chúa chúc phúc như chính Chúa đã kín đáo chúc khen Mẹ Chúa: "Hạnh phúc hơn nữa cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11:28).

 

31. Sám hối

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn. Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.

Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết. Thứ hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim. Thứ ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với nhau để cùng nhau thăng tiến. Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc. Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý, Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha thứ cho nhau. Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng, phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Thứ bảy, các nhân đức luân lý được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp tội và đứng làm gương mù. Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa, mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.

Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng, muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói “Lạy Chúa” mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên… Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với Chúa phải đến với Giáo Hội.

Có cuốn sách nào được người ta ham mộ, kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được? Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc. Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình chúng ta sẽ tốt đẹp.

home Mục lục Lưu trữ