Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1379845

DÁM CHO ĐI TẤT CẢ

Dám cho đi tất cả

Dường như một trong những nỗi lo lớn của con người là phòng thân. Ai cũng tranh thủ lo tích trữ chút đỉnh tiền bạc của cải để lo cho bản thân mình phòng khi có chuyện bất trắc xảy ra. Khi cần giúp đỡ ai người ta cũng dành lại chút ít chứ khó có trường hợp nào mà người ta dám cho đi tất cả. Ðó là cái nhìn bình thường và tự nhiên ai cũng công nhận.

Ðoạn tin mừng hôm nay cho ta thấy một người dám sống ngược lại với cái nhìn và suy nghĩ bình thường này. Người này đã dám cho đi tất cả. Một người đàn góa nghèo đã dám bỏ vào hòm tiền dâng cúng trong Ðền Thờ một phần tư xu. Số tiền tuy ít ỏi nhưng là cả tấm lòng của bà.

Chúng ta biết người đàn bà theo xã hội Á Ðông phải chu toàn Tam tòng Tứ đức. Người đàn bà này có thể không còn chỗ nương tựa. Bởi lẽ, bà đã xuất giá theo chồng mà chồng lại chết. Và có lẽ bà cũng không có con trai để nương tựa. Do đó, cuộc sống của bà trở nên nghèo khó.

Dầu vậy, chúng ta thấy bà nghèo tiền của vật chất nhưng tấm lòng của bà lại không nghèo. Chúa Giêsu đã ngồi quan sát những người bỏ tiền vào thùng. Ðã có nhiều người bỏ vào thùng này nhưng Người không nói câu gì. Ðến lượt bà Chúa Giêsu đã vội lên tiếng: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” (Mc 12, 43b – 44)

Chúa Giêsu nhìn thấu cõi lòng con người. Chúa không đánh giá con người theo dáng vẻ bên ngoài. Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chuẩn những gì con người có mà Người dựa vào tận thâm sâu tâm hồn mỗi người. Chắc chắn người đàn bà góa nghèo này có lòng tin tưởng thật sự vào Chúa nên bà mới dám cho đi tất cả. Dù rằng một phần tư xu đó là phần nuôi sống bà ngày hôm đó nhưng bà vẫn không giữ lại cho riêng mình.

Mối thứ ba trong cải tội bảy đức dạy chúng ta rộng rãi chớ hà tiện. Rộng rãi với Chúa, rộng rãi với anh chị em. Thế nhưng thực tế chúng ta thấy có nhiều người lại không dám cho đi dù là phần dư thừa. Với Chúa thì họ không dám cho Chúa thời giờ đi dự lễ ngày Chúa nhật cũng như giờ kinh hôm, kinh mai mỗi ngày. Với anh chị em thì họ sống theo châm ngôn “mọi người phải vì mình”.

Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết dám cho đi tất cả vì Chúa và vì anh chị em. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thua sự rộng rãi quảng đại của chúng ta.

 

49. Tấm lòng.

Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta tấm gương đạo đức chân thành của hai người phụ nữ nghèo của nhưng giàu lòng: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà đã liều chết đói, hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Câu chuyện này đã được Chúa Giêsu nhắc tới rõ rệt một lần và lần khác Ngài ám chỉ đến.

Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, những công việc từ thiện, và cả những việc đạo đức mà những người giàu có, cụ thể là giới kinh sư và Pharisêu, chỉ là những phương tiện trục lợi, hay xây dựng danh giá và địa vị cho họ, chứ không phải do lòng kính mến Chúa hay thương yêu người mà phát xuất. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở nơi nào cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình lớn thì động lực chính có khi không phải là đức ái, mến Chúa yêu người, mà chỉ là giá mua danh vọng. Không nên chờ đợi những người như thế hành động một cách âm thầm, ẩn danh. Thành thử số tiền hay công lao khó nhọc họ bỏ ra có thể là nhiều nhưng thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là cuộc đầu tư một vốn bốn lời, đó là sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải là phục vụ.

Trái lại, người đàn bà góa trong Tin Mừng tỏ ra biết phục vụ tôn giáo hết mình: hòm tiền ở hành lang nhà thờ, chắc là thu góp để xây cất hoặc bảo trì bảo quản đền thờ, vì thời Chúa Giêsu đền thờ vẫn chưa hoàn thành. Bà không cần biết ai đóng góp bao nhiêu, bà chỉ thấy có bổn phận đóng góp để tỏ lòng tôn thờ kính mến Chúa theo khả năng của mình. Cho nên, bà có bao nhiêu thì dâng cúng bấy nhiêu mà không hề lo đến tương lai, đến ban chiều, đến ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay Thiên Chúa.

Chính vì thế Chúa Giêsu khen bà đã dâng cúng nhiều hơn những người khác: xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, đáng tức cười. Nhưng vì căn cứ trên ý hướng để đánh giá trị công việc, cho nên Chúa thấy hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh này nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng: người đàn bà này đang túng thiếu, nhưng bà đã thực sự quên mình để chỉ nghĩ đến Chúa, tới ích lợi chung, trong khi đó những người dâng cúng nhiều lại chỉ đi tìm mình, tìm danh tiếng vẻ vang cho mình mà quên Chúa. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng họ có mất mát gì đâu, trái lại còn được lời về danh giá và tiếng khen. Chính vì những lý do đó mà Chúa Giêsu đã cho rằng bà ta dâng cúng nhiều hơn những người khác.

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với cả tấm lòng. Đúng vậy, của cải thì có hạn, người nhiều người ít, công sức cũng có hạn, kẻ nhiều khả năng, kẻ ít khả năng, nhưng tấm lòng thì kể như vô biên giới, và Chúa nhìn vào nơi thẳm sâu của cõi lòng từng người, cõi lòng vô biên giới ấy cân đo những gì là trong sáng, những gì là u tối, những gì là thẳng thắn, những gì là cong queo, để rồi Chúa đánh giá và thưởng công. Vì thế, số lượng nhiều ít của cải vật chất đem ra để chia sẻ không có giá trị nhiều, chính tấm lòng yêu thương quảng đại bên trong mới quan trọng và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhìn bên ngoài, còn Thiên Chúa nhìn bên trong, đó là trường hợp bà góa, bà dâng của và dâng cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.

Như vậy, bài học chúng ta cần ghi nhớ và suy nghĩ là cách chúng ta làm việc bác ái từ thiện thế nào. Thường thường ai cũng muốn làm việc để được người khác đề cao khen thưởng, nhưng trong việc bác ái, cụ thể là việc bố thí, thì Tin Mừng nói rõ: “Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín nhiệm sẽ thưởng công cho ngươi”, nghĩa là làm phúc bố thí để cho Chúa biết, Chúa thấy, đó mới là mục đích, đó mới là quan trọng. Điều quan trọng ở đây là chính Chúa thấy trong sự kín nhiệm, kín đáo, loài người không thấy, không biết, nhưng Chúa thấy và Chúa biết tất cả và Chúa có phần thưởng của Ngài. Ở đời, ai làm gì cho chúng ta, chúng ta cũng dành một phần thưởng tương xứng cho họ, huống chi Thiên Chúa. Nhưng có điều chắc chắn là Chúa sẽ thưởng đời sau, cũng có khi Chúa thưởng ngay đời này. Như vậy, rõ ràng làm việc lành để ca tụng Chúa chứ không phải để ca tụng mình, nếu được người ta ca tụng là đã lãnh phần thưởng rồi, và như thế có thể sẽ không còn công phúc trước Thiên Chúa nữa.

Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta thường làm những việc đạo đức, những việc bác ái, chia sẻ, những cách đối xử với người khác như thế nào? Có phải với tấm lòng chân thực hay vì những lý do gì khác? Chúng ta hãy nhớ: Chúa căn cứ vào tấm lòng chúng ta mà thưởng công cho chúng ta.

 

50. Nghèo túng.

Dưới mắt người đời, thì nghèo túng là một điều bất hạnh. Chẳng đặng thì đừng mới phải cúi đầu chấp nhận tình cảnh hẩm hiu ấy.

Hình ảnh bà góa trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một tiêu biểu cho thân phận nghèo túng. Thế nhưng, theo Kinh thánn, người nghèo túng thường được Chúa ca tụng và chúc phúc.

Đúng thế, trong những ngày hạn hán, chỉ riêng bà góa thành Sarepta được Chúa sai tiên tri Êlia tới ban phúc lành. Rồi trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa khen ngợi bà góa đã bỏ vào hòm tiền có hai đồng xèng, là đã bỏ nhiều nhất, vì bà dám hy sinh cả những cái cần thiết cho cuộc sống của mình. Lần khác Chúa đã làm phép lạ, cứu sống cậu thanh niên con trai của một bà góa thành Naim.

Sở dĩ Chúa ca ngợi và chúc phúc như thế là vì họ đã rộng rãi với Chúa. Thực vậy, dù phải cho đi đến miếng bánh cuối cùng, dù phải dâng cúng ngay cả những đồng xu cần thiết…họ cũng không tiếc xót.

Nghèo túng tự nó chẳng bao giờ là điều đáng ước mong, nhưng Chúa đã ca ngợi và chúc phúc cho họ không phải vì họ nghèo túng, nhưng vì người nghèo túng thường có tâm hồn độ lượng, biết chia sẻ và cảm thông với những người cùng sống trong một cảnh ngộ như mình.

Trong cơn hoạn nạn, kinh nghiệm cho thấy, họ là những người có mặt đầu tiên và ra tay giúp đỡ nhiều hơn cả.

Hơn thế nữa, họ còn biết tin tưởng vào Chúa, sẵn sàng chịu đựng cảnh nghèo túng trong niềm kính sợ Chúa như người ăn xin tên là Lagiarô, không than thân trách phận như ông Giob, vì họ tin tưởng rằng sau những gian nguy thử thách ấy, Chúa sẽ ân thưởng bội hậu cho họ như lời Ngài đã phán:

– Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ.

Chúa Giêsu đã không những đã ca ngợi và chúc phúc cho những người nghèo túng, mà hơn thế nữa, Ngài đã chọn con đường nghèo túng để đến với chúng ta và cứu độ chúng ta. Sinh ra tại Bêlem không nhà không cửa. Lớn lên tại Nagiarét với những công việc cực nhọc. Lang thang rao giảng Tin Mừng:

– Con cáo có hang chim trời có tổ nhưng Con Người thì không có chỗ tựa đầu.

Và sau cùng, đã chết đi một cách trần trụi và tủi nhục trên thập giá.

Chúng ta có thể tóm kết về cuộc đời Ngài như thế này:

– Sinh ra nghèo túng, lớn lên nghèo túng hơn và chết đi một cách vô cùng nghèo túng.

Sở dĩ như vậy vì Ngài là một vị Thiên Chúa giàu sang, đã mặc lấy thân phận nghèo hèn để biến chúng ta, những tạo vật nghèo hèn, được trở nên giàu sang.

Có một câu chuyện kể lại rằng:

Ngày kia, gặp một anh ăn mày, Chúa đã xin anh ta một chút gì đó. Miễn cưỡng anh ta phải vét bị đưa cho Chúa một nắm gạo. Chúa nhận lấy, nhưng rồi sau đó đã trả lại ngay. Tuy nhiên, lạ lùng thay, trên bàn tay anh ta không phải là những hạt gạo gẫy nát mà là những hạt vàng sáng chói. Anh ta tiếc rẻ vì đã không đưa cả bị cho Chúa.

Trong đời sống đạo đức, chúng ta chỉ để ý xin Chúa, mà ít để ý đến những điều chúng ta có thể làm cho Ngài. Tuy nhiên, cũng có những người đã hiểu và họ đã dâng cho Chúa: có thể là một vài đồng xu hay một nắm gạo, có thể là tất cả bị gạo và ngay cả mạng sống của chính mình. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dâng gì cho Chúa? Chúa sẽ chẳng bao giờ chịu thua lòng rộng rãi và quảng đại của chúng ta đâu.

 

51. Hôn nhân trên Thiên Đàng

(Bài giải thích của cha giảng Phủ Giáo Hoàng, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, về các bài đọc từ phụng vụ Chúa nhật 32 thường niên – Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách)

Ngày kia, Chúa Giêsu đứng trước thùng tiền đền thờ, quan sát xem đám đông dâng cúng tiền. Người thấy một bà góa đến và bỏ vào thùng tất cả những gì bà có, hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Roma. Người quay về các môn đệ của Người và nói, “Thầy bảo thật anh em, bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó, còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống.”

Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật này là “Chúa Nhật những bà góa.” Truyện một bà góa cũng được tường thuật trong bài đọc thứ nhất, bà góa thành Zarephath, kẻ đã cho tất cả những gì bà có để ăn (một nắm bột và một giọt dầu) đễ dọn một bữa ăn cho tiên tri Elia.

Đây là một dịp tốt để lưu ý đến hai bà goá đó và những ông goá vợ ngày nay. Nếu Kinh Thánh thường nói về những bà góa và không bao giờ nói về các ông góa, là vì trong xã hội ngày xưa người phụ nữ bị bỏ lại một mình là một sự bất lợi lớn hơn người nam bị bỏ lại một mình. Ngày nay không còn sự khác biệt này nữa. Thực sự, nói chung thì bây giờ xem ra những người nữ ở một mình xoay sở tốt hơn người nam.

Trong dịp này tôi muốn đề cập một chủ đề đáng quan tâm dứt khoát không những cho các bà goá và ông góa, nhưng cũng cho tất cả những ai đã kết hôn, cách riêng trong tháng này tháng chúng ta nhớ đến người chết. Có phải sự chết của một người chồng hay bà vợ, đem lại sự chấm dứt hợp pháp của một cuộc hôn nhân, cũng mang theo nó sự chấm dứt hoàn toàn hiệp thông giữa hai người? Có phải một sự gì của dây ràn buộc này đã hiệp nhất rất mãnh liệt hai người trên mặt đất, vẫn tồn tại trên trời, hay là tất cả bỉ lãng quên một khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa vào sự sống đời đời?

Ngày kia, một số người Sadducé trình bày với Chúa Giêsu trường hợp hi hữu về một người nữ vợ liên tiếp của bảy anh em, hỏi Chúa bà ấy sẽ là vợ của ai sau ngày sống lại. Chúa Giêsu trả lời: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12:25).

Vì giải thích sai lạc lời nói này của Chúa Giêsu, nên một số người chủ trương rằng hôn nhân sẽ không có tiếp tục trên trời. Nhưng với sự đáp trả này Chúa Giêsu loại trừ tranh biếm họa những người Sadducé trình bày về thiên đàng, dường như trên thiên đàng sẽ tiếp tục quan hệ trần tục của vợ chồng. Chúa Giêsu không loại bỏ khả năng họ có thể tái khám phá trong Thiên Chúa dây ràn buộc đã liên kết họ dưới thế.

Theo quan niệm nầy, hôn nhân không chấm dứt hẳn lúc chết nhưng được biến đổi, thiêng liêng hóa, giải phóng khỏi những giới hạn đánh dấu sự sống trên mặt đất, cũng như những sự ràn buộc giữa cha mẹ và con cái hay là giữa bạn hữu sẽ không bị bỏ quên. Trong một kinh tiền tụng cho người chết phụng vụ công bố: “Sự sống được thay đổi chớ không mất đi.” Cả hôn nhân, là thành phần của sự sống, sẽ được thay đổi, chớ không bị hủy bỏ.

Nhưng cái gì xảy ra cho những kẻ đã có một kinh nghiệm tiêu cực vế hôn nhân trần tục, một kinh nghiệm về sự hiểu lầm và đau khổ? Ý niệm giây hôn nhân không dứt cho họ lúc chết, có phải thay cho một niềm an ủi, lại là một lý do làm cho họ sợ chăng? Tình yêu đã liên kết họ, có lẽ chỉ một thời gian ngắn, vẫn tồn tại; những khuyết điểm, những hiểu lầm, sự đau khổ mà họ giáng cho nhau, sẽ tiêu tan.

Thật sự, chính sự đau khổ này, chấp nhận với đức tin, sẽ được biến đổi thành vinh quang. Nhiều vợ chồng sẽ cảm nghiệm tình yêu thật cho nhau chỉ khi họ sẽ được tái hiệp nhất “trong Thiên Chúa,” và với tình yêu này sẽ có niềm vui và sự hiệp nhất trọn vẹn mà họ không biết được dưới đất. Trong Thiên Chúa mọi sự sẽ được hiểu, mọi sự sẽ được tha thứ, mọi sự sẽ được bỏ qua.

Dĩ nhiên nhiều người sẽ hỏi về những kẻ đã kết hôn hợp pháp với những người khác nhau, những ông goá và những bà góa đã tái kết hôn. (Đây là trường hợp được trình bày cho Chúa Giêsu về bảy anh em lần lượt cưới cũng một người nữ làm vợ). Cả đối với họ chúng ta phải lập lại cũng một sự: tình yêu và sự trao thân cho nhau thực sự giữa mỗi người chồng và vợ, vì khách quan là một sự lành đến từ Thiên Chúa, sẽ không bị phá hủy. Trên thiên đàng sẽ không có sự tranh đua trong tình yêu hay sự ganh tị. Những sự này không thuộc về tình yêu thật nhưng thuộc về những giới hạn nội tại của tạo vật.

 

52. Đồng tiền.

Có một ông già giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền”. Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác”. Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử”. Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc”. Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.

Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ. Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in. Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng. Chính vì giá trị định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quí trọng, dù đẹp dù xấu, dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình. Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.

Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.

Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu?

Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số tiền lớn của những người khác. Nhưng xét theo tỷ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống. Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại, những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một cuộc đầu tư một vốn bốn lời. Đó là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã đánh giá bà góa nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi người.

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.

Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quí như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…

 

home Mục lục Lưu trữ