Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 31

Tổng truy cập: 1378941

ĐẤNG MESSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM

ĐẤNG MESSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux

Sau một cuộc hành trình dài, Chúa Giêsu cũng các môn đệ đã đến Giêrusalem. Đây chính là thời kỳ quan trọng –Maccô cũng như ba vị thánh sử kia (Mt 21,1-10; Lc 19,28-40; Ga 12,12-19), đã kể lại biến cố này bằng một bối cảnh rất rõ ràng. Bản tường thuật của Maccô đầy tràn các hình ảnh Kinh Thánh. Nghĩa là các Kitô hữu sơ khai vẫn ấp ủ và chiêm ngắm việc Chúa Giêsu vào thủ đô như là hình ảnh báo trước việc Đấng Phục Sinh sẽ trả lời trong vinh quang.

Bối cảnh cho giai đoạn này cũng rất đặc sắc. Từ Giêricô, Chúa Giêsu tiến về thành thánh từ hướng đông. Ngài băng qua các làng Betphaghê và Bêtania, theo hướng xuôi xuống triền núi Ôliviê (c.2a). vào thời Chúa Giêsu, có một truyền thống Do Thái xa xưa cho rằng chính Thiên Chúa –và Đấng Mêsia của Ngài- chắc chắn sẽ theo lộ trình đó để đến phán xét vào thời cuối cùng. “Vào ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliviê đối diện với Giêrusalem về hướng đông” (Dc 14,4). Chính bối cảnh tiên tri này đã mang lại âm sắc độc đáo cho biến cố xảy ra ngay sau đoạn khơi mào: sự thanh tẩy Đền thờ (11,15-18).

Trong lúc ấy, việc Đấng Mêsia vào thành vẫn chưa mang vẻ uy nghi gì cả. Chúa Giêsu chưa phát biểu gì. Ngài chỉ phái hai môn đệ đi tìm cho Ngài một con vật để cỡi (c.1b-6). Kiểu tường thuật này được lặp lại trong việc chuẩn bị chi cảnh cuối cùng (14,12-16). Trong cả hai lần, Chúa Giêsu muốn chính mình sắp đặt mọi sự, và muốn mọi việc Ngài ủy thác phải được thi hành hoàn hảo. Điều này càng nhấn mạnh tính chất linh thiêng của biến cố sắp xảy ra. Đó là một sáng kiến cao cả và hoàn toàn không do ngẫu nhiên. Việc Chúa Giêsu ra lệnh đem về cho mình “một con lừa nhỏ có cột dây, chưa có ai cỡi” (c.2) rất đáng ta chú ý đến. Con vật đó phải còn nguyên tuyền, chưa ai dùng đến. Đó phải là một con vật thánh. Ở xứ Israel, lừa là một gia súc quen thuộc với công việc gia đình. Và trong Thánh Kinh, đó là con vật để cỡi theo truyền thống của vua chúa (1V 32-35). Chính trong trường hợp này, qua việc chọn lấy một con lừa, Chúa Giêsu đã hoàn tất một trong những lời tiên tri mang tính Mêsia được biết đến nhất. “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên! Này đây Vua ngươi ngự đến, Ngài công minh và vinh quang, nhưng khiêm tốn cỡi trên lừa còn nhỏ. Ngài sẽ cất khỏi Êphraim các cỗ chiến xa và khỏi Giêrusalem các xe trận. Người sẽ bẻ gẫy cung nỏ chiến tranh và tuyên bố hòa bình cho mọi dân nước” (Dc 9,9-10).

Nghịch lý đã được bộc lộ ra ở đây. Chúa Giêsu muốn tỏ mình ra là Đấng Mêsia của Israel. Ngài khiêm hạ, đem đến sự an bình. Con vật tầm thường của Ngài cỡi trái ngược hẳn với đoàn hộ tống của vua chúa thân chinh: ngựa chiến oai phong, chiến xa. Trang phục kín đáo của Ngài cũng không xứng với danh xưng dân chúng gán cho Ngài. Ngài là “Chúa” (c.3). Dưới ngòi bút của Maccô, tước hiệu này có lẽ chỉ là do sự lầm lẫn khi viết ra. Maccô rất ít khi dùng đến tước hiệu này khi Chúa Giêsu còn sống (7,28 và 12,36-37). Trước tiên, nó muốn ám chỉ Đấng mà các Kitô hữu sẽ thờ phương sau khi Ngài sống lại vinh quang, đó chính là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.

Những câu 7-10 gợi lên nghi thức phong vương. Các môn đệ dắt lừa con tới, trải áo làm yên, Chúa Giêsu ngồi lên (c.7). Những cử chỉ này làm nhận biết tính cách vương đế của Thầy họ. Và dân chúng phấn khởi (c.8). Họ trải thảm cho Chúa Giêsu đi, thảm danh dự trong các ngày lễ thánh (xem chuyện Jêhu trong 2V 12b-13) #. Việc chặt lá cây là mượn hình ảnh ngày lễ Trại. Thời Chúa Giêsu vào dịp lễ này người ta hoan hỉ đón mừng vương quyền của Giavê. Niềm mong chờ Đấng Mêsia bỗng trở nên sống động nhờ một cuộc diễn hành trong đó dân chúng tán tụng Thiên Chúa, tay cầm các nhành vạn tuế và lá dừa (x. Lv 23,39-40) miệng tung hô.

Chúa Giêsu là vị anh hùng y như trong nghi thức trên đây. Người ta tung hô đón tiếp Ngài. Họ hoan hỉ hộ tống Ngài vào thành (c.9). những lời ca tụng tán dương dân chúng dành cho Ngài mang một sắc thái lễ nghi rõ rệt. Chúng được trích từ Thánh vịnh 118, và cũng được hát trong dịp lễ trại “Hosana!” là một từ ngữ Hy Bá Lai có nghĩa “Xin cứu giúp chúng tôi!”. Dần dà, lời kêu cầu xin giúp đỡ này trở thành một tiếng tán dương, một lời “hoan hô”. Chúa Giêsu đã được hoan hô, được công nhận là Mêsia, “Đấng sẽ đến” (Tv 118,26). Maccô còn làm cho thời điểm này mang tính Mêsia hơn khi ông thêm vào: “Vạn tuế vạn phúc triều đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (c.10a). dân chúng nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, vị vua đã hoàn thành được những lời hứa hẹn của Thiên Chúa với các vị vua Giuđa (2V 7,12-16). Tiếng kêu cuối cùng của dân chúng có thể khiến ta ngạc nhiên, tựa như một âm vang: “Hoan hô Chúa!” (c.10b).

Sau cùng, thánh sử khéo léo ghi nhận đích đến của đám rước hoan hỉ này: “Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và đi vào Đền thờ” (c.11a). Vị Vua Mêsia hoàn tất cuộc diễn hành tại nơi trung tâm của thành thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa. Toàn bộ hành trình của Chúa Giêsu hướng về Giêrusalem như nơi Ngài chọn để hoàn tất sứ vụ. Những cuộc gặp gỡ, tranh luận sau đó đều xảy ra xung quanh hoặc chính trong nơi thánh này của Israel (11,12-12,44). Những từ Maccô dùng để kết thúc bản tường thuật không làm ta ngỡ ngàng chút nào. Khi đã vào đền, Chúa Giêsu “rảo mắt nhìn xem mọi sự” (c.11b). Chắc hẳn Thầy đã biểu lộ sự hiện diện uy nghi của mình qua việc đảo mắt dò xét xung quanh. Và Maccô biết điều bí mật đó.

Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giêsu vẫn ẩn náu một vẻ bình thản lạ lùng. Hội hè lễ lạc đã xong hẳn. Một tấn kịch đang hình thành và sắp mở màn. Ngài đợi đến ngày hôm sau mới ra tay hành động bởi vì trời đã về chiều. Chúa Giêsu cùng với Mười Hai môn đệ trở về nghỉ ở Bêtania (c.11b). Cuộc rút lui chiến thuật này thật đầy ý nghĩa. Bêtania, tiếng Hy Bá Lai có nghĩa là “nhà của kẻ nghèo”. Với vẻ trang trọng lạ thường, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có thể làm người ta quên đi điều này: Con Người đến đó để trải qua cuộc khổ nạn (10,32-34).

Người ta thường cho rằng cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem chỉ xảy ra vắn vỏi. Mọi người đều tin rằng bản văn tường thuật hiện nay chỉ mang màu sắc hội hè sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh mà thôi. Cộng đoàn sơ khai hẳn rất thích thú đọc lại, qua ánh sáng Kinh Thánh, về một biến cố nguyên tuyền, đồng thời lại khiêm nhường nhất. Gioan đã nói lại điều đó khi ông viết: “Thoạt đầu các môn đệ không hiểu điều này, nhưng khi Chúa Giêsu đã được vinh hiển rồi, họ mới nhớ lại rằng điều đó chỉ về Ngài…” (Ga 12,16). Chúng ta chỉ kết luận rằng vào dịp lễ độc đáo đó, Chúa Giêsu đã được dân chúng tiếp rước nồng hậu nhưng vẫn hàm hồ. Những biến cố kế tiếp sẽ chứng tỏ điều này.

ÂM MƯU CHỐNG LẠI CHÚA GIÊSU (14,1-2)

Lần đầu tiên độc giả có dịp đặt mình vào bối cảnh “Lễ Vượt Qua”. Trước kia, Vượt Qua chỉ là một dịp lễ hội của dân du mục. Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12,1-11). Đến khi dân Israel đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, cũng mang dáng dấp nông nghiệp như trên, gọi là “bánh không men”. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ hội này –Vượt Qua và bánh không men- nhanh chóng được nhập làm một với nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân đến, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi ách nô lệ (ra khỏi xứ Ai Cập) và thiết lập dân Thiên Chúa (Dt 16,1-8). Ở Israel, Vượt Qua đã trở thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do Thái. Do đó không phải ngẫu nhiên mà bản tường thuật khổ nạn lại được đặt vào khung cảnh của lễ hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.

Và thế là một sự diễn ra rất chính xác (c.1b). Trước đây ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giêsu, dù mới chỉ là nét phác họa sơ sài (c.3,6). Nhưng âm mưu này chỉ liên quan đến nhóm biệt phái và các kẻ thuộc phe Hêrôđê. Nhưng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, kế hoạch bắt Ngài được vạch ra chính xác hơn, phát xuất từ giới tư tế, và được giới thường dân hùa theo, nhất là sau “vụ việc” Đền thờ (11,15-18; 12,12). Đến bây giờ các thượng tế, với sự giúp đỡ của các ký lục, đang cố tìm ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giêsu. Họ “tìm mưu” hầu tránh gây kích động nơi dân chúng (c.2). Vào dịp lễ Vượt Qua rất nhiều khách hành hương tuôn về Giêrusalem, họ là những người Do Thái tản mác khắp bốn phương thiên hạ. Đó hẳn là một thời cơ thuận lợi để nổi dậy: Vả lại, Chúa Giêsu được dân mến mộ vì những lời giảng dạy sáng chói trong Đền thờ (12,12-57). Các thủ lãnh Do Thái phải nhanh chóng hành động, trước khi ngày lễ bắt đầu: phải đảm bảo trật tự công cộng.

XỨC DẦU THƠM Ở BÊTANIA (14,3-9)

Đây chính là lời dẫn nhập về Cuộc Khổ Nạn. Câu chuyện xảy ra ở Bêtania, một làng nhỏ gần Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giêrusalem (11,11). Người tiếp đón Ngài không ai khác hơn là chính người phong cùi trước đây tên là Simon (c.3a). Ông đã được lành bệnh và đã tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình.

Chỉ một mình Maccô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn (c.b). Ta không biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quý, “rất tinh tuyền”. Có lẽ đó là loại dầu thơm chiết xuất từ một loài cây cỏ Ấn Độ. Đập bể bình ra, “Cô đổ dầu thơm trên đầu Người” (c.3c). Maccô nhấn mạnh đến sự hoang phí này. Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình để đổ thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu là việc quá dễ dàng: Chúa Giêsu ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài tựa mình dài lên một cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ này mang ý nghĩa gì? Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Thầy. Có thể cô đã nhận ra tính cách Thiên sai nơi Chúa Giêsu. Bởi vì khi xức dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua. Theo như sự mong đợi của người Do Thái thì Đấng Mêsia đã được “xức dầu” (x. Is 61,1). Nhưng việc vừa xảy ra khiến các môn đệ Chúa Giêsu phản ứng dữ dội.

Người ta quên rằng ngoài Simon, Chúa Giêsu và người phụ nữ còn có nhóm Mười Hai môn đệ nữa chứ. Họ mới là những kẻ nổi xung lên, cho rằng làm như thế là phí phạm quá. Họ ước tính bình dầu thơm đó phải hơn ba trăm đồng: tương đương với ba trăm ngày công vất vả của một nông dân chớ đâu phải ít gì! (c.4-5). Thà rằng đem bán lấy tiền cho kẻ khó còn hơn. Lời phê phán này cũng có lý đấy chứ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bênh đỡ cho hành vi của cô ấy: “Cô ấy vừa làm cho Tôi một việc nghĩa” (c.6). Các môn đệ phải nhận thức ra điều này. Người ta chẳng thiếu gì người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Môsê thì Thiên Chúa đã đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15,4). Nhưng cũng không nên quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu. Bởi thế Ta truyền dạy rằng: Ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15,11). Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc phải cấp tốc giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một kẻ đặc trách việc phân phát tiền bố thí. Theo Gioan, đó chính là phần vụ của Giuđa, thủ quỹ của nhóm Mười Hai (Ga 12,4-6). Vậy rõ ràng là các Tông đồ, mà đầu tiên là Giuđa, đã tỏ ra giả dối khi lên án người phụ nữ đó phí phạm. Và Chúa Giêsu bất ngờ mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa: vả lại, “Cô ấy đã lấy dầu thơm để chuẩn bị ngày mai táng” (c.8). Ý Chúa Giêsu muốn nói về hành động mang tính tiên tri của cô ấy. Cô đã thấy trước sự ướp thơm tử thi Chúa Giêsu. Đó là một việc rất có giá bởi lẽ ta nên nhớ rằng nấm mồ nơi chôn cất Chúa Giêsu là mồ của kẻ đã bị kêu án tử; phải nhanh chóng táng xác Ngài và cũng không cần chi mà phải ướp dầu thơm (15,46). Ta cũng nên lưu ý rằng theo đạo Do Thái hồi ấy, người ta vẫn thường coi trọng việc thực thi bác ái. Theo truyền thống thì chôn xác kẻ chết là một nghĩa cử rất đáng biểu dương, tương tự như việc bố thí cho kẻ nghèo khó vậy (x. Tb 1,16-18).

Chúa Giêsu đã không ngần ngại liên kết hành động của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu. Và Maccô cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến (c.9). Khi ghi lại cảnh này, thánh sử biết rằng việc xức dầu ở Bêtania hẳn sẽ được nối kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Ta nhận thấy Maccô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho cả thế giới (1,1; 8,35; 10,29; 13,10). Tâm điểm của Tin Mừng này là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Mêsia, và dĩ nhiên, cử chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.

NGÃ GIÁ ĐỂ GIUĐA PHẢN THẦY (14,10-11)

Như ta đã nói ở trên, trong số các môn đệ chống đối việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giêsu (14,3-9), chắc chắn có “Giuđa Iscariot, một trong nhóm Mười Hai” (c.10a). nhờ vào Tin Mừng Gioan, ta biết thêm rằng chính y là người quản lý tiền bạc cho nhóm Tông đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến những nhiệm vụ ấy, bởi lẽ “y là một tên trộm cướp… y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho vào trong túi ấy (Ga 12,4-6). Và ta có cần phải tưởng tượng nhiều lắm mới nhận ra chính y là kẻ biển lận và dễ bị mua chuộc phản bội lại Thầy mình nhất không? Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giêsu cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được tiền (c.10b-11a). Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14,1b) nay sắp tới lúc chín muồi. Và qua những dòng đơn sơ Maccô đã chỉ cho thấy rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng ngũ bạn hữu của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Giuđa làm Tông đồ như những Tông đồ khác, tin tưởng y, cùng sống với y và giúp đỡ y (3,13-19). Cần ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giêsu đến cái chết lại đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài.

Bây giờ Giuđa chỉ còn tìm dịp thuận tiện để giao nộp Chúa Giêsu (c.11b). Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần phải chờ đến hết ngày (14,43-50).

CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).

Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13)-cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a). và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..

Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).

Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

LỄ LÁ- Chú giải của Fiches Dominicales

BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH MACCÔ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ.

Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Maccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.

Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:

+ Am mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2).

+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác.

+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.

– Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.

+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).

+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).

+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).

+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).

+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).

+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).

– Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).

+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:

Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)

Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.

Phêrô chối Thầy (14,66-72)

– Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)

+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).

– Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)

– Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.

Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.

Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.

Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.

– Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Maccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong “Lire ba Bible” số 55, trang 1 13).

Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc

E.Charpentier, giải thích: “Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị “tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, ” (Sđd) .

Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:

+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là “Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.

+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải “Vua dân Do Thái” không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng (“Đức Giêsu không trả lời gì nữa”) ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ “Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông ” (Is 53, 7) .

+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.

Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Maccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.

– Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.

– J. Hervieux nhận xét: “Maccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là “Con Thiên Chúa”. Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.

Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (…).

Đồng thời Maccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là ai” Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng” Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. ” Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian” (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 230) .

– Sau cùng, địa vị của phụ nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa – việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái – trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế “nhân chứng” duy nhất: “họ đứng nhìn”, “đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng “Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).

BÀI ĐỌC THÊM

Bí mật rồi cũng được mạc khải (“La Bible du dimanche” trang 403-404).

Xuyên suốt Tin Mừng, Maccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.

Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).

Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Maccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.

Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy.”

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Chủ Ðề: Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đi vào con đường chịu nạn

Dẫn vào Thánh lễ

(Như lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)

Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người. Ðể thực hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục sinh và sự sống.

Lời Chúa

Bài Tin Mừng lúc kiệu lá: Mc 11,1-10

Việc Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần long trọng (dân chúng đón rước, tung hô…) nhưng không phải là một cuộc biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Ðức Giêsu là người như thế nào:

Ðức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).

Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi mật hiệu với nhau).

Ðức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.

Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo hơn là chính trị (“Hoan hô Ðấng nhân danh Chúa mà đến”, “Hoan hô trên các tầng trời”)

Như thế, Ðức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.

Bài đọc Cựu Ước: Is 50,4-7

Ðây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách Isaia.

Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.

Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý Chúa.

Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành hạ.

Ðáp ca: Tv 21

Tâm tình của người công chính bị bách hại:

Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải chịu

Ðồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.

Bài Thánh Thư: Pl 2,6-11

Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Ðức Giêsu:

Con đường hạ mình: dù là Con Thiên Chúa, nhưng Ðức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết trên thập giá)

Con đường được tôn vinh: Ngài càng hạ mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn thờ Ngài).

Bài Thương khó: Mc 14,1-15, 47

Diễn tiến cuộc chịu nạn của Ðức Giêsu đều giống nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn:

a/ Ðức Giêsu “bị trao nộp”: Ðộng từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Ðức Giêsu là: Giuđa (nộp Ðức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Ðức Giêsu cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Ðức Giêsu, Ngài cũng tự trao nộp mình.

Lý do trao nộp cũng khác nhau: vì tiền (Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mị dân (Philatô), và vì yêu thương (Chúa Cha, Ðức Giêsu).

b/ Ðức Giêsu là “Con Thiên Chúa”: Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Ðức Giêsu: Ngài là người – là Kitô (Messia) – Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1: “Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”. Mặc khải cao nhất về Ðức Giêsu là tư cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15,39).

Gợi ý giảng

* 1. Chúa chọn con lừa

Nhiều độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Ðức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào thành trước: “Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay” (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì cả, mà là chính Ðức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong làng: đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu trả lời đã quy ước sẵn.

Tại sao Ðức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này? Thưa có hai lý do:

1/ Sự việc diễn ra “mấy ngày trước lễ Vượt Qua” (c 1). Lễ này kỷ niệm việc dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu khí nhạy cảm đó, Ðức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước chuyến vào thành của Ngài.

2/ Mọi chi tiết mà Ðức Giêsu đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao? Vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.

Tuy nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó”, dân chúng thì cũng “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy” (các câu 7-9). Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng: Hôm nay ngày giải phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện! Tóm lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay Ðức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh:

Tại sao các Thượng Tế Do Thái tìm bắt Ðức Giêsu? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Ðức Giêsu sẽ dẫn đến sự đàn áp của quân Rôma: “Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta” (Ga 11,48).

Tại sao Giuđa nộp Ðức Giêsu cho các Thượng Tế? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Ðức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Ðức Giêsu làm gì nên hắn nộp Ðức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Ðức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.

Tại sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết Ðức Giêsu? Ðó là phản ứng thất vọng của những người đã từng hy vọng quá nhiều: Họ hy vọng Ðức Giêsu giải phóng đất nước nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.

Hôm nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Ðức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi Ngài?

Nếu chúng ta coi Ðức Giêsu là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ Do Thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.

Nếu chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.

Nếu chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.

Ðức Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Ði theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.

* 2. Con đường dẫn đến vinh quang

Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam và Ðức Giêsu.

Ađam đã muốn “dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi hạnh phúc địa đàng.

Còn Ðức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.

Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam: tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý Ngài muốn.

* 3. Trao nộp Ðức Giêsu

Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người đều trao nộp Ðức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải thích phía trên).

Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác nhau:

Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa, Philatô): cách trao vụ lợi

Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng tế): cách trao ác độc.

Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha): cách trao yêu thương.

Trao chính mình (Ðức Giêsu): yêu thương tột cùng.

Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và về cách mình trao Ðức Giêsu cho người khác.

* 4. Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm

Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ. Giáo lý đạo Phật dạy “Ðời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và diệt hết được.

Ðức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.

Nino Salveneschi có suy nghĩ này: “Thật lạ khi người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay… nhưng không tính nổi sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu” (Savoir souffrir)

* 5. Phêrô chối Thầy

Việc ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ:

– Ông là người nhiệt tình nhất với Ðức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.

– Lý do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Ðức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Ðức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.

Phêrô đã dám theo Ðức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ… Trong thời gian đó không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh đến một giới hạn nào đó thôi.

Có lẽ cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra – tuy một cách vô ý thức – cho việc chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.

* 6. Vương quốc Tình yêu

Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.

Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.

Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Ðau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Ðến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Ðức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Ðức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.

Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Ðức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Ðức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga.11,55-57). Vậy Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.

Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr.9,9). Ðức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Ðấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.

Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Ðấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Ðavít. Trái lại, Ðức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.

Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.

Ðức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.

Ðức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.

Ðức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.

Ðức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.

Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo Ðức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới. Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin:

Ðức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.

Ðức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị / nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.

Ðức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

Ðức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.

Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ðức Giêsu Con Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

Trong Thánh lễ

Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hiến mình làm lễ vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa. Xin cho Nước Thiên Chúa mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.

Giải tán

Chúng ta đã bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức sốt sắng trong tâm tình kết hợp với Ðức Giêsu, với Ðức Mẹ và với toàn thể Hội Thánh. Hãy cùng chết với Ðức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.

home Mục lục Lưu trữ