Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 53
Tổng truy cập: 1376899
ĐỂ YÊU CHÚA VÀ THA NHÂN PHẢI BIẾT YÊU MÌNH
Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
44. "Ngừng lại!"
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
45. Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười "muốn ít, càng ít càng tốt và tính nệ luật "làm đủ luật" là xong và bảo đảm, đủ luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa.... hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da (superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự". Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái. Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt.
Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy:
Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là "mến Chúa yêu người". Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn". Đọc hoài, ngon miệng nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải "mến Chúa yêu người" rồi kể là đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết lòng. "Trên hết mọi sự" thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa, là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người. Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien (Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương. Không phải "mến Chúa yêu người".
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ. Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong "một" là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong "tất cả luật Môsê và các tiên tri" đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí không "yêu" mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh Gioan nói "anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối".
46. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam