Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1378838
ĐÔI BẠN CHÂN TÌNH
Đôi bạn chân tình – Như Hạ, OP
Không dễ gì kiếm được một người bạn. Người bạn đem lại nguồn an ủi, cơ hội và niềm vui lớn lao. Tình bạn có thể chia sẻ và hi sinh tất cả cho nhau. Thử tưởng tượng thế giới sẽ ra sao nếu vắng hẳn tình bạn. Về một phương diện, tình bạn còn quan trọng hơn mọi thứ tình yêu khác. Vả lại, thường tình yêu cũng bắt đầu bằng tình bạn và lớn lên trong tình bạn. Tình bạn đẹp đến nỗi Đức Giêsu cũng muốn lên một sự thật: "Anh em là bạn hữu của Thầy" (Ga 15:14).
TRI ÂM
Đức Giêsu muốn yêu thương con người bằng một tình bạn thắm thiết. Người không muốn có một cách biệt quá xa như chủ tớ, mặc dù giữa Người và nhân loại khoảng cách còn xa hơn ngàn lần. Nhưng tương quan phải thật gần gũi mới cảm thấu được tình yêu sâu đậm dành cho nhau. Người như quên tất cả địa vị của mình. Làm sao một tạo vật như chúng ta có thể dám mơ ước trở thành người bạn tri âm của Thiên Chúa? Nhưng Người từng tâm sự: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu" (Ga 15:15). Như thế, con người đã được nâng lên hàng bạn thân của Chúa. Nếu cứ để nhân loại trong hàng nô lệ hay tôi tớ, làm sao Thiên Chúa bắc nổi nhịp cầu tri âm? Một khi đã coi các môn đệ là tri âm, Đức Giêsu đã chia sẻ cho họ sự hiểu biết về Chúa Cha (Ga 14:20). Như thế Người đã làm cho họ mãn nguyện. Người đã có thể tâm sự sâu xa với họ về cái chết của Người cho toàn thể nhân loại. Vì yêu thương, Người đã săn sóc họ tận tình, đến nỗi đã quì xuống rửa và hôn chân họ. Đó là một bài học nhưng cũng là dấu chỉ báo trước sự hi sinh cực kỳ sâu xa. Cúi xuống thật sâu để nâng họ lên ngang hàng với mình. Một khi đã được nâng lên, họ hoàn toàn được tin tưởng và ủy thác tất cả sứ mạng cứu độ muôn dân. Chính trong tình yêu, Thầy đã "cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại" (Ga 15:16).
Muốn thế, trước tiên các môn đệ phải được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đó là một hồng ân cao cả, là điều kiện tối thiểu để có thể đi sâu vào tình yêu Thiên Chúa. Chỉ vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban tặng một giá trị và địa vị tuyệt vời cho nhân loại. Trong tương quan này, Thiên Chúa đã trao hiến một cách vô thường. Không thể tìm đâu một sự trao hiến kỳ diệu hơn thế. Quả thực, nơi thập giá, Đức Giêsu cho thấy "không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15:13). Họ đáng hưởng tình yêu cao cả đó, vì đã được nâng lên hàng tri âm của Chúa. "Những bạn hữu của Đức Giêsu là những người có quan hệ gắn chặt với Chúa (Ga 13:23 tt; 19:26; 11:3). "Mình với ta tuy hai mà một". Họ sung sướng vì được trở nên "đồng thừa kế với Đức Kitô" (Rm 8:17). Như thế, họ là những người đặc biệt đón nhận mạc khải về Chúa Cha và được kết hiệp bằng những mối ràng buộc trong 'nhà' Thiên Chúa (Ga 14:20)" (Faley 1994:350). Họ có thể đi lại tự nhiên và hưởng dùng mọi thứ trong ngôi nhà đó, vì từ đây "tất cả những gì của Cha là của con" (Lc 15:31).
Hạnh phúc đó vượt quá lòng mong đợi của các môn đệ. Chính nhờ hạnh phúc đó mà "niềm vui của anh em được nên trọn vẹn" (Ga 15:11). Muốn niềm vui trọn vẹn, phải "ở lại trong tình thương của Thầy" (Ga 15:9). Nếu không, sự chia cắt sẽ gây nên nhức nhối. Cả Thầy lẫn môn đệ đều không vui. Chính Đức Giêsu cũng chỉ giữ được niềm vui trọn vẹn với Chúa Cha, nếu "ở lại trong tình thương của Người" (Ga 15:10). Tình yêu là giây nối kết bền vững giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Tình yêu đó không phải là một thứ lượm ngoài đường, nhưng phải là kết quả của mồ hôi nước mắt khi nỗ lực "giữ các điều răn của Thầy" (Ga 15:10). Điều răn của Thầy không phức tạp và khó khăn như luật lệ Do thái hay dân ngoại. Rất đơn giản. "Đây là giới răn của Thầy: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15:12). Nghĩa là, thực tế "Thầy yêu thương anh em đến nỗi thí mạng vì anh em. Đến lượt anh em cũng phải thí mạng cho nhau". Đó là mức hi sinh lớn lao do tình yêu đòi hỏi. Không hi sinh, chắc chắn không thể có tình yêu. Đó là mức đo tình yêu Đức Giêsu đối với Chúa Cha, và tình yêu môn đệ đối với Đức Giêsu.
Trong tình yêu, Thiên Chúa luôn đưa ra sáng kiến trước. Người làm tất cả để chiếm đoạt trái tim con người. Người muốn gần gũi như bạn tri âm, để nói cho biết về lòng hăng say hăm hở lùng kiếm tình yêu như thế nào. Nhưng trong rừng người trước mặt, tại sao chỉ có một số được tuyển chọn? Lọt vào mắt xanh của Chúa, quả thực là một đại phúc. "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15:16). Họ không được tuyển chọn để sống một mình, nhưng để sống thành cộng đoàn. Ơn gọi và sứ mệnh Kitô hữu luôn đòi phải sống trong tương quan với người khác. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu phải lên tiếng: "Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau" (Ga 15:17).
SỨC MẠNH TRI ÂM
Đức Giêsu đã xác định rõ tương quan bằng hữu giữa Người và các môn đệ. Kitô hữu có nghĩa là người bạn của Chúa Kitô. Một khi đã tâm đầu ý hợp, tình tri âm này sẽ biến thành một sức mạnh vạn năng, đến nỗi "tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em" (Ga 15:16). Từ đầu, nhờ nên một với Đức Giêsu, Giáo hội đã cầu xin Chúa Cha ban Thánh Linh mở rộng sứ mạng truyền giáo cho Dân Ngoại. Chúa Cha đã nhận lời. Thánh Linh chính là tình yêu, một "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4:7). Hơn nữa, "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4:8). Do đó, tình yêu không biết đến bất cứ ranh giới nào. Tình yêu đã được thể hiện một cách vô cùng mãnh liệt khi Thiên Chúa "sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1 Ga 4:10). Thiên Chúa cũng không ra khỏi định luật đòi hỏi của tình yêu: HI SINH.
Chính vì hi sinh lớn lao đó, Giáo hội mới có khả năng đến với muôn dân. Trên bước đường đến với muôn dân, Giáo hội luôn bị cám dỗ co cụm lại chính mình. Trong Giáo Hội tiên khởi, những tín hữu thuộc giới cắt bì đã trở thành kỳ đà cản mũi. Nếu Thánh Linh không can thiệp, chắc chắn không ai có thể dẹp nổi những não trạng cục bộ đó. Thực tế, "những tín hữu thuộc giới cắt bì đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa" (Cv 10:45). Giáo Hội đã có đà phóng tới. Cái nhìn Giáo Hội đã mở rộng đến nỗi thánh Phêrô có thể cả quyết: "Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận" (Cv 10:35). Không phải tới công đồng Vatican II, Giáo Hội mới khám phá ra các thánh ngoại giáo. Ngay từ đầu, Thánh Linh đã cho thấy những khuôn mặt hết sức dễ thương trong cộng đồng dân ngoại.
Tuy thế, tới nay cám dỗ vẫn còn đó. Giáo Hội vẫn luôn luôn phải đương đầu với những thứ kỳ đà cản mũi. Ngay trong cộng đồng dòng tu, vẫn có những cơ cấu hay con người bảo vệ một thứ quyền lợi riêng tư nào đó. Chẳng hạn, có những tỉnh dòng Đa Minh chỉ nhận những người gốc Ái Nhĩ Lan. Có những tranh chấp lớn nhỏ giữa triều và dòng khắp nơi trong Giáo Hội. Tại sao Giáo Hội lại đánh mất tính phổ quát ngay chính nơi cần phải làm chứng đặc tính Công giáo hơn bất cứ nơi nào? Một tình yêu đánh mất chiều kích vô biên, có còn phát xuất từ Thiên Chúa không? Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa, tình yêu đó làm chứng cho cái gì?
Thế nên, Giáo Hội vẫn cần đến Thánh Linh để canh tân chính mình hầu xứng đáng là bạn tri âm của Chúa. Chỉ trong tình tri âm với Chúa, Giáo Hội mới có thể nghe được tất cả mạc khải về tình yêu và nói về tình yêu cho người khác. Giáo Hội đang mất thế đứng tại nhiều nơi trên thế giới vì đã bị những quyến rũ của quyền bính kéo Giáo Hội xa lìa mối tình tri âm đó. Hơn lúc nào, cần phải cầu nguyện cho Giáo Hội, một người bạn tình của Chúa!
65. Thầy ban bình an của Thầy
(Suy niệm của Fr Jude Siciliano, OP)
Thưa quí vị.
Suốt các tuần lễ mùa Phục sinh, Phúc âm nói đến việc Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các Tông đồ. Nhưng tuần vừa qua và tuần này có một chút chuyển hướng. Phụng vụ trích đọc từ bài huấn dụ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Mặc dầu chúng ta vẫn còn đang ở trong mùa Chúa sống lại hiển vinh, nhưng tại sao các bài đọc Tin mừng lại nói về đêm ngay trước cuộc tử nạn? Tức những lời chăng chối Chúa Giêsu dành cho môn đệ? Dụng ý phụng vụ có thể là vì trong bài huấn dụ, Chúa Giêsu nói nhiều về chia ly, hứa hẹn, cam đoan, dặn dò, di chúc, thích hợp cho việc chuẩn bị mừng lễ Chúa lên trời. Khi ấy, các môn đệ chẳng còn được trông thấy Chúa nữa, nhưng Hội Thánh và thế giới vẫn được bảo đảm sẽ cảm nhận sự hiện diện của Ngài cách khác. Ngài lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và gởi Thần Khí xuống Giáo hội, tức lễ Hiện xuống. Như vậy các môn đệ và Hội Thánh được an ủi. Bởi Ngài giống như các cha mẹ, tuy tạm thời lìa bỏ con cái, nhưng vẫn lo liệu cho chúng được an lành. Những đứa con mà Ngài biết còn phải ở lại thế gian để tiếp tục công việc cứu nhân độ thế của Ngài.
Do đó, một điểm rõ nét trong bài đọc Tin mừng Chúa nhật này là Chúa Giêsu cam đoan hằng ở lại trong mối tương quan mật thiết với Hội Thánh. Ngài không giống như những bậc hiền triết thế gian, xuống thế chỉ trong một thời gian ngắn nào đó, khởi sự công việc, rồi trẩy đi nơi xa, hẹn ngày trở lại để kiểm tra công việc của các môn đệ. Nói cách khác, Ngài không xuống thế gian để thiết lập một mẫu người lý tưởng cho chúng ta bắt chước, rồi rời bỏ chúng ta mà về trời, mặc chúng ta tự thân sống theo gương Ngài. Hiện Ngài không đứng trên Cổng Đền Vàng Thiên Cung, chờ đợi chúng ta hoàn thành công việc, thẩm tra xem chúng ta đã cố gắng thế nào trong tiến trình theo gương Ngài, rồi tuyên án thưởng phạt cho cân xứng.
Thực tế, chúng ta chẳng cần một thần tượng để sống rập theo khuôn. Chúng ta cần một vị Cứu tinh. Đấng đã một lần sống chết cho nhân loại. Đấng luôn ở với nhân loại để ban sức mạnh và hướng dẫn chúng ta sống chết theo gương Ngài, bằng chính cuộc đời mình. Hôm nay cũng như Chúa nhật vừa qua, sứ điệp quan trọng nhất của Chúa Giêsu là ở lại trong Ngài. Đó là đường lối để chúng ta thi hành lệnh truyền yêu thương của Ngài. Chính Ngài ban ơn để chúng ta sống đời sống của Ngài. Sự thật là tự mình, chúng ta chẳng thể sống như vậy. Không liên kết với Ngài, dù cố gắng đến mấy đi nữa chúng ta chỉ như ngành nho khô héo. Không ơn Ngài, không ở lại trong Ngài, không có sự hiện diện của Ngài, thì dù Giáo hội hoặc mỗi cá nhân, không thể sống ơn gọi thương yêu mà bài Tin mừng hôm nay đề cập tới: "Hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu anh em." Tình yêu của Ngài là tình yêu hy sinh mạng sống cho người khác. Chúng ta có thể làm được chuyện đó mà không cần ơn Ngài trợ giúp?
Một số người phàn nàn rằng từ sau Công đồng Vatican II Hội Thánh đã trở nên mềm yếu, toàn nói về tình yêu. Họ muốn trở lại thời kỳ trước Công đồng, cứng rắn và bất khoan dung, trắng ra trắng, đen ra đen, không mập mờ nước đôi. Họ nhớ lại thời niên thiếu của mình, mà hối tiếc nếp sống kỷ luật cũ. Nhưng chúng ta không còn là trẻ con. Lệnh truyền yêu thương đã có từ thời Chúa Giêsu. Đấng sáng lập Hội thánh, chứ không phải sáng kiến của Vatican II hoặc xu thế của thời đại mới. Chính Chúa Giêsu đã ban lệnh truyền: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (15,12).
Ngài còn thêm: "Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy." (15,14). Nghĩa là Ngài không nói với Giáo hội, với các Tông đồ trong tư thế một ông chủ (nói với nô lệ) mà là người bạn (với bạn hữu mình). Tôi tớ, nô lệ phải chấp hành kỷ luật của ông chủ. Đời sống của họ được ông chủ hoạch định và chỉ huy. Nếp sinh hoạt của các tín hữu không theo mẫu mực đó. Ngược lại tình yêu là căn bản để họ sống. Ngài bảo đảm Thiên Chúa đã thương yêu họ trước, chẳng phải vì công lênh mỗi người, nhưng hoàn toàn vì ân huệ. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thể hiện lòng yêu mến đó. Chúng ta là bạn hữu của Ngài cho nên Ngài yêu cầu chúng ta sống như bạn hữu với nhau, không thù hận, không ghen tương. Từ "bạn" trong mạch văn có nghĩa là những "người được mến yêu". Chúng ta phải sống đúng tiêu chuẩn đó, bởi chúng ta là những môn đệ được Ngài yêu thương.
Trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, các tín hữu dùng những danh từ khác nhau mà miêu tả mình, khi sang trọng, như "ngôn sứ", đại diện, đại sứ, môn đệ, sứ giả của Ngài, khi khiêm nhượng, như bầy tôi, nô lệ, thuộc hạ… Trong Kinh thánh đôi lúc cũng dùng các từ đó. Nhưng ở trường hợp này, trước lúc ra đi, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là bạn hữu dấu yêu và Ngài sẽ hy sinh mạng sống để cứu vớt họ. Thật là một tình yêu cao cả. Bởi đây là giây phút nghiêm trọng nhất trong cuộc đời Ngài, không thể khách sáo hay giả hình. Hoàn toàn là sự thật và chân thành. Những tác giả viết các dòng trên là môn đệ nhiệt thành của Chúa Giêsu. Họ có ấn tượng sâu sắc về các điều quan trọng Thầy mình đã dạy, cho nên họ không thể viết sai chân lý. Những điều họ để lại cho nhân loại hoàn toàn đúng với sự thật mà họ đã được nghe và chứng kiến.
Chúng ta không thể nghi ngờ về nội dung họ viết ra, chỉ có điều chúng ta thực hiện hay không! Chúa Giêsu biết rõ thế gian sẽ đối xử tàn tệ với các môn đệ và những người vâng theo giáo lý của Ngài, cho nên Ngài bảo đảm với họ, dù thế nào đi nữa, tồi tệ đến đâu đi nữa, thì họ vẫn được Ngài yêu dấu. Trong Tin mừng hôm nay, Ngài nhắc đi, lặp lại nội dung đó nhiều lần. Thành công của họ trên thế giới không phải theo tiêu chuẩn loài người: địa vị, tài sản công danh, tiền bạc… mà là trung tín với những lời sau đây: "Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy". (15,9). Quí vị nghĩ sao? Còn điều gì tha thiết hơn được nữa? Vậy xưa nay chúng ta đáp trả lòng quí mến của Chúa Giêsu thế nào? Nếu chưa được nghiêm chỉnh thì hôm nay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta hạ quyết tâm trung thành với lời mời gọi của Chúa.
Còn điểm sau đây nữa cũng phải bàn cho thấu đáo, tuy rằng có khi trước đây đã nghe giảng giải nhiều lần. Nhưng hễ gặp chữ yêu thương mà Chúa Giêsu nói tới, nhiều người tưởng tượng là thứ tình yêu khả giác chúng ta dành cho cha mẹ, ông bà, con cái, họ hàng, bạn bè và các thành viên khác của gia đình. Không đúng vậy. Từ mà Chúa Giêsu dùng ở đây là "Agape" (bác ái). Tức yêu thương rộng rãi, không loại trừ. Nó không phải là yêu thương dành cho thân thuộc mà thôi, nhưng cho hết mọi thành viên trong nhân loại, dầu tốt, dầu xấu. Nó không phải là tình yêu theo bản năng, ưa thích những gì đẹp đẽ nơi người khác, mà là sẵn lòng vươn tới tha nhân, hành động vì lợi ích của họ, dù người đó có liên hệ với mình hay không, miễn là họ cần đến sự trợ giúp của mình. Nhiều lúc còn phải hy sinh tiền của, thời giờ, sức lực nữa. Chúa Giêsu đã làm gương về lòng yêu mến kiểu "Agape" này. Ngài đã hy sinh chính bản thân cho nhân loại. Thiên Chúa yêu trần thế một cách vô điều kiện, tức không đòi hỏi ở chúng ta tính đáng yêu, đáng mến trong ngôn ngữ thế gian. Sự chết của Chúa Giêsu trên thập tự phản ánh một cách hoàn hảo tình yêu Đức Chúa Trời dành cho loài người. Ngài yêu chúng ta cho nên Ngài đã đi bước trước để chứng tỏ tình yêu đó. Ngài hành động nguyên vì sự an lành của nhân loại.
Cho nên, "mang nhiều hoa trái" là hệ quả đương nhiên của trạng thái ở lại trong Chúa Giêsu. Cằn cỗi, vô sinh là bằng chứng chúng ta không còn ở lại trong tình yêu của Ngài. Chúng ta đã bị cắt đứt khỏi thân nho. Như vậy cũng dễ thẩm định hiện trạng của mỗi linh hồn. Hằng ngày chúng ta phải hồi tâm suy nghĩ để xem mình còn thực sự ở lại trong Chúa hay không? Thực ra, ẩn dụ: "mang nhiều hoa trái" có nhiều ý nghĩa, áp dụng được vào rất nhiều tình huống. Theo Tin mừng Gioan, mang nhiều hoa trái là rao giảng và làm chứng tình yêu của Chúa Giêsu cho thế gian. Mặc dầu Ngài sắp lìa bỏ các môn đệ, nhưng các ông vẫn liên kết chặt chẽ với Ngài trong lòng yêu mến, mang nhiều hoa trái và ở lại trong tình thương của Ngài.
Tuy nhiên làm thế nào Chúa Giêsu duy trì liên hệ với nhân loại, một khi đã về trời? Xin thưa, cũng giống như mọi mối liên hệ khác: Bằng tương giao. Chúa Giêsu tiếp tục làm mưa Thần Khí của Ngài trên các Tông đồ và Hội Thánh. Các Tông đồ và Hội thánh vừa lãnh nhận, vừa đáp ứng sự hiện diện của Thần Khí. Trong Phúc âm hôm nay, sự đáp ứng đó, như Chúa Giêsu nói, là niềm vui trọn vẹn: "Các điều ấy, Thầy nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn." (15,11). Cũng như các Tông đồ thuở xưa, ngày nay người tín hữu phải gieo rắc và làm chứng nhân cho niềm vui của Thiên Chúa.
Tác giả Leon Bloy viết: "Người Kitô hữu chỉ có nỗi buồn duy nhất: Mình chưa phải là một vị thánh." Ngoài ra không còn nỗi buồn nào khác. Có thể thế gian còn làm cho chúng ta đau khổ, có thể nó còn rình chờ để nuốt chửng Hội thánh. Nhưng ở lại trong Chúa Giêsu bảo đảm sự hiện diện của Ngài. Nhờ sự hiện diện này, linh hồn mỗi người tràn ngập niềm vui. Các thánh đều đã cảm nghiệm được như vậy. Có vị suốt đời hớn hở vui mừng dù phải chịu muôn vàn cực hình thể xác. Theo kinh nghiệm truyền giáo của Hội thánh, nhiều tín hữu tốt cũng thường được hưởng niềm vui này. Do đó, nếu có ai (tu sĩ hay giáo dân) cảm thấy bất hạnh trong bậc sống của mình, thì đó là vì không còn ở trong con đường thánh thiện nữa.
Xưa nay vẫn thường xảy ra bất mãn, rồi tìm cớ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Không có hoàn cảnh nào làm cho người tín hữu mất vui, mất hạnh phúc, nếu như còn ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu! Thế gian đã không thắng được Ngài thì ở lại trong Ngài chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc. Tôi được quen biết nhiều gia đình giáo dân, bên ngoài xem ra bất hạnh, như bệnh tật, tuổi già, nghèo khổ. Nhưng kỳ thật, họ rất hạnh phúc, và làm chứng cho nhau về niềm vui của Thiên Chúa. Họ phục vụ nhau trong hoan hỉ vui tươi khiến tôi phải mủi lòng và xấu hổ. Khi vua Napoleon của nước Pháp thất bại, bị bệnh gần chết ở đảo Saint Hélène, người ta tiến lại gần giường nhà vua, hỏi xem ngày nào là ngày hạnh phúc nhất của ông. Nhà vua quay mặt ra cửa sổ nhìn biển xanh, rồi trả lời: "Ngày tôi được rước lễ lần đầu. Có Chúa Giêsu ngự trong linh hồn tôi". Đúng vậy, muốn được hạnh phúc thật, người ta phải ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa. Ngoài ra là bất hạnh. "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của thầy cho anh em. Thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng." (14,27). Amen, Alleluia.
66. Trở nên bằng hữu Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại những hoạt động của Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ và những Kitô hữu đầu tiên. Đó chính là hành động của Thiên Chúa trong chúng ta, và nhắc cho chúng ta nhớ lúc Giáo hội sơ khai còn non yếu, nhờ Lời Chúa Giêsu hứa trước khi Ngài về trời: "Còn anh em, hãy… cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24:49)
Lời Chúa Giêsu hứa không phải là chút an ủi cho các Môn đệ trước khi Ngài ra đi. Hay để hướng dẫn cho các ông cách thực hiện những điều Ngài đã dạy bảo. Nhưng đây chính là lời hứa là Ngài sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến với các Môn đệ. Và trong khi các ông đang tề tựu bên nhau (Cv 2:1), Chúa Thánh Thần đã ngự xuống như "lưỡi lửa" và như "tiếng gió mạnh ùa vào". Các Môn đệ và cả chúng ta nữa, cần sức mạnh ấy để rao giảng Nước Trời cho toàn dân thiên hạ. Thần lực của Chúa Thánh Thần là động lực thúc đẩy Giáo Hội đi khắp thế gian để rao giảng và làm phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về việc Chúa Thánh Thần dẫn đưa Phêrô đến để nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi dân ngoại. Co-nê-li-ô là một đại đội trưởng một cơ đội của Sê-Da. Ông và cả gia đình đều được coi như là những "người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa". Họ chấp nhận đạo đức và tín ngưỡng của người Do Thái, và có lẽ họ cũng đã đến đền thờ Do Thái. Dù vậy, Co-nê-li-ô vẫn còn là người ngoại, nên Phêrô và các người khác trong cộng đòan không nghĩ ông và gia đình ông được ơn cứu rỗi của Chúa. Nên nhớ: sau khi Chúa Giêsu về trời, các Môn đệ Ngài vẫn còn là một nhóm trong cộng đòan Do Thái.
Nhưng, đoạn trước bài đọc hôm nay, ghi lại Co-nê-li-ô có thị kiến: ”một thiên sứ của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn, cũng gọi là Phê-rô" (Cv 10:5). Phê-rô cũng có thị kiến trong cùng giờ đó (Cv 10:19). Vì thế, khi có hai người của Co-nê-li-ô đến nhà Phê-rô để mời ông, Phê-rô nhận lời ngay. Làm thế nào Phê-rô khẳng định được đó là ý Chúa qua hai thị kiến: một cho Co-nê-li-ô, và một cho Phê-rô là tiếp nhận người ngoại vào cộng đoàn Môn đệ Chúa Giêsu. Bằng chứng là khi Phê-rô đến nhà Co-nê-li-ô gặp ông và cả gia đình đạo đức của ông, thì Chúa Thánh Linh xuất hiện và “Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa" (Cv 10:44)
Hãy thử xem lại câu chuyện: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa. Và Thánh Thần không chỉ ở trong Phụng vụ và Giáo hội; Thánh Luca diễn tả Chúa Thánh Thần trong lễ Hiện Xuống như "tiếng gió mạnh ùa vào…và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa" (Cv 2: 1-3); Mà Ngài còn xuất hiện bất kỳ nơi nào, như gió và lửa.
Hôm nay, trong Phụng vụ Lời Chúa, khi được đọc lên trong cộng đòan, sách Công Vụ Tông Đồ nhắc cho chúng ta việc Thánh Thần ngự xuống giữa chúng ta và trong lòng chúng ta như "lửa" và "gió mạnh" để thổi nguồn sống mới, đem sức mạnh đức tin cho chúng ta. Và Thánh Thần Chúa làm cho chúng ta, cũng như các Kitô hữu lúc ban sơ, đủ quyết tâm ra đi rao giảng về Chúa Giêsu Kitô cho toàn thế giới trong kế hoạch lớn của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cộng tác với Ngài để thực hiện.
Chúng ta hãy mở lòng trí để lãnh nhận Lời Chúa và Thánh Thần. Nếu khi xưa Thánh Thần Thiên Chúa đã mở lòng trí Phê-rô và Giáo Hội sơ khai biết đón nhận người ngoại vào cộng đoàn, thì biết đâu Thánh Thần Chúa cũng sẽ làm những điều lạ trong thế giới và Giáo Hội nhỏ bé hôm nay.
Sáng nay, báo chí đăng tin Tổ chức Y Tế Quốc Tế loan tin quan trọng là dịch cúm heo đang lan tràn khắp trái đất. Nhiều quốc gia đã tìm cách ngăn ngừa bệnh cúm cho công dân họ. Khi nạn dịch xảy ra, sẽ có nhiều người bị bệnh, vậy ý Chúa như thế nào trong trường hợp này? Cũng như, mỗi khi có những biến cố lớn xảy ra như động đất, sóng thần, hạn hán v.v..., thì chúng ta thường gọi đó là việc của Chúa. Chúng ta thường gán cho Chúa mỗi khi có những chuyện xấu xảy ra. Thử hỏi có phải chính Chúa đã gởi đến những cơn bão lớn tàn phá bang Texas, và gây tử vong nhiều người không? Có phải Chúa đã xử dụng quyền năng của Ngài như vậy chăng?
Theo đức tin, tôi biết Thiên Chúa chỉ có một việc làm là: Ngài đã xuống trần gian, làm người như chúng ta, cam nhận đau khổ và cái chết. Và rồi Ngài sống lại, đem đến cho chúng ta một đời sống mới. Phúc âm có nói đến hành vi lớn lao của Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình."(Ga 15,13) Chúa Giêsu đã làm điều này cho chúng ta. Hành vi yêu thương này mới là "Việc Chúa Làm".
Chúng ta không đến nhà thờ cầu nguyện để làm đẹp lòng Chúa, hầu được Chúa thương và giúp đỡ. Cũng không nài van để được Ngài đoái đến. Chính đời sống, sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu là tin mừng lớn mà chúng ta lại được nghe hôm nay. Đó là Chúa đã thương chúng ta. Không vì chúng ta thương Ngài trước rồi Chúa mới đáp lại. Mà vì Chúa đã thương chúng ta trước nhất. Nếu chúng ta còn do dự thì hãy nhìn vào Chúa Giêsu: Ngài đã chứng tỏ tình yêu đó quá rõ ràng, do vậy, chúng ta phải làm gì để chứng tỏ là chúng ta đã nghe lời đó. Phải thay đổi cuộc sống như thế nào để đáp lại tình thương mà Ngài đã ban cho chúng ta một cách nhưng không? Khi một người đang yêu, chúng ta thấy họ có sự thay đổi: Người đó vui vẻ hơn, kiên nhẫn hơn và dịu dàng hơn v.v.. nổi bật lên một cách tự nhiên không gượng ép. Vậy nơi chúng ta; trong tình Chúa yêu thương; đã nỗi bật được những đức tính gì?
Hôm nay, khi chúng ta thưa "lạy Chúa Giêsu, vậy con phải làm gì để chứng tỏ tình Chúa yêu thương chúng con"? Ngài sẽ trả lời: "hãy giữ giới răn của Thầy". Ắt chúng ta sẽ nghĩ ngay đến 10 điều răn, và tự xét mình xem có vấp phạm ở giới răn nào không? Tôi đã làm trái điều gì? Nhưng Chúa Giêsu không xét đến 10 điều răn ấy, coi xem chúng ta có vấp phạm hay thiếu sót không. Nhưng trái lại, Ngài nói đến một điều răn tích cực hơn là "hãy thương yêu nhau". Đó là giới răn đáp ứng được nhiều khía cạnh, tạo nhiều dịp cho chúng ta có thể thực hành những gì chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa một tình yêu vô điều kiện.
Nếu không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình, thì tôi có thể đáp lại giới răn của Chúa Giêsu bằng cách tự xét mình xem: Tôi phải hy sinh cái gì của cuộc sống tôi cho tha nhân? Bỏ đi: tính kỳ thị, tránh né việc giúp đỡ tha nhân, sự giận hờn, ganh tị với người khác, những điều cáo gian, thâu vén của cải vật chất v.v..? Chúa Giêsu không hề đưa danh sách các điều răn để chúng ta xét rồi tự nói "đây, tôi đã phạm điều này". Trái lại, Ngài cho một điều răn tổng quát là "hãy thương yêu tha nhân như Thầy đã thương con". Thử hỏi chúng ta có bảo đảm được rằng đã giữ được điều răn đó chưa? hay dám nói: "tôi tự xét là đã làm được điều này rồi" - Không? Sự đòi hỏi của tình yêu là vô cùng. Không người bạn đời nào trong chúng ta có thể nói: "Đây, tôi yêu mình như thế là quá đủ rồi, không thể đòi hỏi hơn được nữa"? Tình yêu là ngọn lửa cháy trong lòng chúng ta, làm chúng ta luôn khao khát được thương yêu nhiều hơn và không có quy ước định lượng thông thường. Do vậy chúng ta cần có Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đón nhận tình yêu Chúa và luôn khao khát triển nở tình yêu ấy đến cho tha nhân.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta có cuộc sống cứ phải cực khổ cố gắng làm mọi sự cho đúng như một nô lệ, vì sợ bị phạt nếu chúng ta vấp phạm. Ngài gọi chúng ta là "bạn hữu". Tình bằng hữu này không phải là loại tình cảm yếu đuối, hẹp hòi, thiếu sự nâng đỡ, phát sinh tiêu cực, nhằm thỏa mãn dục tính. Mà là tình bạn hai chiều, thương yêu và kính trọng nhau. Giúp mở rộng tầm nhìn và những vận hội mới, những sáng tạo mới, nâng đỡ khi chúng ta cần. Nó đưa chúng ta về cuộc sống đời thường, giúp chúng ta thoát ra khỏi chính mình khi tâm hồn đã khép kín, kéo chúng ta thoát khỏi sự chán nản, đối thoại trong những lúc trao đổi tâm tình, và tình bằng hữu đó đã mở ra cho chúng ta một thế giới mới trong cuộc sống.
Chúng ta đã là bạn hữu của Chúa Giêsu. Nhờ Ngài đã mời: "Thầy gọi anh em là bạn hữu". Nhờ Thánh Linh Ngài, chúng ta có thể làm việc như bạn của Ngài và mổi ngày nên giống Ngài hơn. Hay, như Lời Chúa hôm nay, vì là bạn hữu của Chúa, chúng ta "sẽ sinh được hoa trái, và hoa trái sẽ tồn tại". Trong Tiệc Thánh hôm nay, chúng ta hãy mời Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta cách chết đi những mặt nào trong đời sống để cuộc sống của chúng ta trổ sinh hoa trái mới, hầu làm Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết thương yêu nhau, xin giúp chúng con sống tình thương ấy để mọi người biết chúng con là bạn của Chúa."
67. Hãy yêu thương nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Trong bài hát "Niềm tâm sự", hầu hết các nhà thờ ở Việt Nam đều biết đến, nhạc sĩ Anh Linh đã mượn Kinh Thánh để phổ những dòng nhạc thật êm dịu ngọt ngào: “Yêu nhau chính là giới răn riêng Thầy. Yêu nhau như Thầy yêu dấu chúng con, để cho thế gian hiểu biết rằng chúng con chính là môn sinh của Thầy". Đây là lời bộc bạch của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly với các môn đệ sau khi Giuđa, một trong nhóm mười hai phản bội đi ra khỏi phòng ăn. Lời tâm sự cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Ngài thi hành ý định của Thiên Chúa Cha cứu độ nhân loại.
Lời trăn trối của Chúa Giêsu
Trước khi nhắm mắt lìa đời, những lời cuối cùng của một con người bao giờ cũng mang một ý nghĩa quan trọng bộc lộ cả một tấm lòng, cả tâm huyết của con người. Chúa Giêsu trước khi bị trao nộp, Ngài đã dùng bữa cuối cùng với các môn đệ và trong bữa ăn này sau khi đã làm một cử chỉ rửa chân đầy ấn tượng, gây ngạc nhiên cho các tông đồ, Giuđa đi ra khỏi phòng, Chúa Giêsu đã thổ lộ tất cả những gì cần nói với các môn đệ. Qua cuộc trao đổi, đàm đạo, tâm sự đầy thân mật, các môn đệ đã trở nên nghĩa thiết, trở thành bạn hữu của Chúa: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết"(Ga 15, 15). Trong cuộc tâm sự, bộc bạch, dặn dò này, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại các tông đồ: “Hãy yêu thương nhau". Đây là cốt lõi của Tin Mừng của Chúa Giêsu và cũng là giáo huấn chủ yếu của Đạo Kitô giáo. Lõi tủy của đạo do Chúa Giêsu thiết lập xem ra thật đơn giản, nhưng đầy thâm thúy, sâu sắc: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15, 12). Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ, nhưng đồng thời Ngài cũng truyền lệnh cho các ông: “yêu thương nhau". Để làm gương cho các ông, Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, nói lý thuyết, mơ hồ, nhưng chính Ngài đã làm gương cho các ông về tình huynh đệ, về sự khiêm nhượng, về sự tận tình. Tình yêu thương lớn nhất, cao cả nhất là: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13). Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với cha của Ngài, nhưng đồng thời cũng là chóp đỉnh của tình yêu thương của Ngài đối với con người. Đây là mẫu mực và là nền tảng của tình yêu xả kỷ, tình yêu vô vị lợi, tình yêu chỉ mong hạnh phúc cho tha nhân. Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào tình liên đới với Thiên Chúa Cha vì tình yêu của Ngài phát xuất tự Thiên Chúa Cha: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy" (Ga 15,9)
Đây cũng là cốt lõi của công trình cứu chuộc vì khi đưa các môn đệ đi vào tình thân mật với Thiên Chúa Cha và qua đó ở lại với Chúa Giêsu trong tình yêu mến, và như thế cũng phải yêu mến anh em. Hai vế yêu Chúa, yêu tha nhân không thể tách rời nhau. Thánh Phaolô cũng xác quyết manh mẽ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Nếu ai nói yêu Chúa mà không thương yêu anh em mình thì kẻ đó nói láo". Với lòng yêu thương mà Chúa Giêsu tiết lộ, các môn đệ đang sống trong thời cứu chuộc: “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn"(Ga 15, 11). Niềm vui này là niềm vui phục sinh, các môn đệ đang được chia sẻ trong cuộc sống mới của Chúa Kitô sống lại. Các môn đệ yêu thương nhau còn là dấu chỉ của sự hiện diện của lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người và nhân loại sẽ nhận biết các môn đệ là bạn hữu của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau...mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau"(Ga 13, 35).
Trọng tâm của đạo Kitô là tình thương
Giới luật yêu thương Chúa truyền cho các môn đệ cũng là lệnh Chúa ban cho mọi Kitô hữu, những người được mời gọi đi theo Đức Kitô. Như thế, xét cho cùng đạo của Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình thương. Chúa Giêsu không tới trần gian để dạy những lý thuyết suông, những luật lệ cứng ngắc, những giới răn không hồn. Chúa không bao giờ nói mà không làm. Những lời nói của Chúa hết sức thực tế, những phép lạ của Chúa làm hết sức ấn tượng và luôn phù hợp với đời thường, với những gì diễn ra ở xã hội, ở trần gian. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay của thánh Gioan 15, 9-17 đặt mọi người Kitô hữu trước thúc bách của Phúc Am, đưa mọi người Kitô hữu vào trọng tâm của Đạo, vào cốt lõi của Đạo: “Đạo của Chúa là Đạo tình thương, của lòng yêu mến". Mọi đường hướng, chỉ đạo, dậy bảo nếu chúng nằm ngoài sự yêu mến, nằm ngoài tình thương của Chúa thì chúng đi ngược lại với Tin Mừng, nằm ngoài Kitô giáo. Nên, muốn đi đúng hướng, đi đúng đường, muốn loan báo, rao giảng, làm chứng cho công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, cho tình thương của Ngài, nhân loại phải thực thi lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em"(Ga 15, 12). Lời ca trong niềm tâm sự của nhạc sĩ Anh Linh vẫn vang lên mỗi lần nhà thờ chọn để hát. Niềm tâm sự của Chúa vẫn nhẹ nhàng, đầy tâm huyết, đầy nhiệt tình: “Yêu nhau như Thầy yêu dấu chúng con, để cho thế gian hiểu biết rằng, chúng con chính là môn sinh của Thầy ". Kahil Gibran đã để lại một câu bất hủ: “Bạn chỉ cho đi quá ít, khi cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi ".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn biết thực thi giới luật yêu thương của Chúa.
68. Như Thầy đã yêu - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sống yêu thương và hành động như Chúa Giêsu là điều mỗi Kitô hữu phải suy nghĩ, phải noi gương và bắt chước. Trên thế giới ngày nay nhiều nơi nhiều nước ngoài việc làm giàu cho nước mình, nhiều Chính phủ, nhiều Bộ ngành đã biết mở rộng cái nhìn của mình để chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, để ý tới những người neo đơn, cô thân cô thế vv... Đọc báo, nghe đài, truy cập mạng, chúng ta thấy nhan nhản các tổ chức, các cá nhân đầy lòng quảng đại, đầy từ tâm. Những con người này có trái tim nhạy cảm, có tấm lòng mở rộng sâu xa, biết chăm lo cho những người nghèo đói, những người bất hạnh, những người bị đẩy ra bên lề xã hội.Đây là những con người có trái tim như Chúa Giêsu biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của nhân loại, biết trắc ẩn trước lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con" (Ga 15, 12).
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn bắt gặp một Chúa đầy lòng nhân từ, một Chúa luôn trắc ẩn trước nỗi đau khổ, thiếu thốn, đói khát của đám đông. Vâng, chúng ta có thể bắt gặp một Thiên Chúa thứ tha, một Thiên Chúa yêu thương đến tột cùng, một Thiên Chúa đầy lòng nhân nghĩa. Thử xem người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và Chúa đã đối xử làm sao, đối xử như thế nào? Một Thiên Chúa nhân từ đối với người phụ nữ bị cho là tội lỗi tràn đầy: cô Maria Mađalêna. Trước cái chết của người thân, người quen thuộc: Lagiarô đã chôn trong mồ bốn ngày rồi. Trước con bà góa thành Naim, trước đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu khát khao lời của Ngài và đang lâm cơn khát, đói vv... Chúa Giêsu đã luôn để ý tới từng nhu cầu của từng nhóm, từng người. Tình yêu của Chúa quả không giới hạn và vô biên Người cảm thông với con người, với tất cả mọi người mà Ngài đã dựng nên: "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết" (Ga 15, 15). Tình yêu của Chúa Giêsu đã đi tới chỗ tuyệt đỉnh, đã đi cho tới cùng: "Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13, 1). Tình yêu tận hiến, vô vị lợi: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu (Ga 15, 13) hoặc "Khi nào ta bị treo lên khỏi mặt đất Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu phát xuất tự Thiên Chúa Cha, tình yêu này luân chuyển từ Người đến con người và giữa con người với con người: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con" (Ga 15, 12).
Yêu như Chúa yêu quả thực không phải là chuyện dễ nhưng lời mời gọi của Chúa luôn thúc bách mọi người hãy hướng tới người khác và bắt chước gương của Thầy Giêsu đã sống, đã thực hiện và nhất là đã yêu. Gương của các môn đệ bên Chúa Giêsu, đã được Ngài yêu thương, chăm sóc và các môn đệ đã yêu thương nhau như thế nào vẫn là điều thôi thúc mỗi người chúng ta vươn lên, vươn lên mãi và sống, yêu như mức độ Thầy Giêsu đã sống, đã yêu. Hãy chiêm ngắm gương thánh Maximilianô Kolbê, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Phanxicô khó khăn, mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Cha Jean Cassaigne, Đức thánh Cha gioan Phaolô II vv...Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu là yêu cho đến cùng và chết trên thập giá.
Trước một thế giới chạy theo lợi nhuận, chạy theo đà phát triển của văn minh, nhiều khi con người quên đi sự cảm thông, tình bác ái, lòng yêu thương chân thật. Một nụ cười giữa sa mạc khô cằn sẽ nâng đỡ, khuyến khích con người rất nhiều. Thế giới đang khao khát tình yêu. Người tín hữu phải là chứng nhân cho tình yêu đích thực, tình yêu nở hoa, tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Con người của chúng ta không có cơ hội để chết như Đức Kitô, nhưng chết cho tha nhân là chấp nhận hao mòn hằng ngày để cho người khác được niềm vui và hạnh phúc. Bởi vì như bài hát Kinh Hòa Bình đã viết: " Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra bộ mặt của Chúa nơi tha nhân để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
69. "Các con hãy yêu thương nhau" - Lm. Thu Băng
Đức Thánh Cha Gioan 23 trong phiên họp Hội Đồng Giám Mục để bàn luận về nền tảng Đức Ái của đời sống Kitô Giáo. ngài hỏi: "Chư Huynh nghĩ xem đâu là cùng đích của đời sống Kitô Giáo?"
Các ngài trả lời hầu như giống nhau rằng: " Cùng đích của đời sống Công giáo là: Nhận biết - Yêu mến - Phụng sự Chúa ở đời này để được nước Thiên đàng đời sau."
Đức Thánh Cha nói cười vui vẻ: "Chư Huynh nghĩ vậy chưa đủ, còn có phần ích kỷ. Phải có phần giúp đỡ người khác cùng nhận biết, cùng yêu mến, cùng phụng sự Chúa, cùng vui hưởng thiên đàng".
Đó là khía cạnh rộng lớn Chúa truyền dạy qua bài Phúc âm hôm nay "Các con hãy yêu thương nhau".
Yêu và giúp người khác thực hiện điều đẹp lòng Chúa, tránh xa những gì mất lòng Chúa và mất lòng người ta.
Việc giúp đỡ người khác của chúng ta không phải như cái giúp của ông thầy, của sư phụ dạy truyền cho đệ tử. Nhưng là cái giúp thực hành ngay trong cuộc sống mình:
- Giữ giới luật Chúa - cho người khác noi theo.
- Giữ lời nói đoan chính
- ăn mặc xứng kỳ đức.
- ăn uống không phàm phu tục tử, không bê bối.
- Đời sống vợ chồng lành mạnh, ấm êm.
- Dạy con cái cho phải phép.
- Trước một ngưòi khác tôn giáo, biết tỏ lối sống đạo giáo của mình.....
Mội điều chúng ta đang thực hiện cách tốt đẹp, có điều cần chú ý hơn trong giai đoạn này là: khía cạnh dạy con theo gương cha mẹ.
Dạy con từ thuở lên ba
Dạy vợ từ thuở về nhà làm dâu.
Cha mẹ sinh con trời sinh tính
Nhưng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Hiện trạng ngày nay: Trẻ con lang thang, cao bồi, phá phách xóm làng, quần áo theo thời theo mốt....
Các anh chị làm dáng làm đẹp (Ok): Bồng bềnh mái tóc mây, bộ tóc Kenedy (Ok). Bộ áo đầm xòe dễ coi (Ok). Những điều đó xứng kỳ đức lắm. Mặc đẹp sẽ không dám ba trợn ở dọc đường.
Các em nhỏ chưa đến tuổi thành niên:
Mặc áo mùa đông cho mùa hè - Cha mẹ nhìn con ăn mặc không thấy chướng mắt. Các em mặc áo người lớn khi còn đang là con nít. Quần xắn móng heo, chân đi dép Nhật. Nếu để làm hề thì trên sân khấu đã có đạo diễn, còn ở ngoài đường không ai là đạo diễn cả. Cha mẹ hãy dạy cho con hiểu và chúng sẽ nghe, đừng bảo " Con tôi nó đâu có vậy".
Nó có vậy khi không có mặt bố mẹ ở đó. Muốn biết con ai không khó gì, cứ ra các quán hàng là thấy mặt thôi. Muốn biết nghe nói con ai, nghe nói nó làm gì, cứ đến nhà thờ trước giờ Thánh Lễ là phân biệt được kẻ tốt người xấu thôi. Đừng để con hư hổ mặt mẹ cha. Tóm lại, vì mến Chúa, thương người, chúng ta sống sao cho trọn đạo, sống sao cho xứng kỳ đức và răn dạy con cái để nên gương cho mọi người. " Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta và dạy người khác yêu mến và làm như vậy".
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam