Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1378646

Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu

Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.

I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.

Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.

Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.

II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa

Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.

Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?

Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.

III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài

Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.

Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.

“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?

2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?

3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)


 

22. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Đề: Cũng vì thương, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người. (Mc 9,7)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Hội Thánh nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.

Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.

II. Gợi ý sám hối

Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?

Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?

Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?

III. Lời Chúa

1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18

Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.

Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc; b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.

Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây" ; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.

Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.

2. Đáp ca: Tv 115

Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.

Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.

Những tâm tình này rất đúng với Abraham.

3. Tin Mừng: Mc 9,2-10

Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi... dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)

Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.

4. Bài đọc II: Rm 8,31-34

Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta" ; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".

Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng

Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.

Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).

Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).

* 2. "Hãy vâng nghe lời Người"

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

- Ông hãy đẫp vỡ nó ra!

- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:

- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?

- Bằng nửa vương quốc.

- Hãy đập vỡ nó ra!

- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:

- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

- Hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:

- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?

Abdul bình tỉnh đáp:

- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài".

* 3. Con yêu dấu

Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".

Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.

Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào!

Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào!

4. Thử thách và biến hình

Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.

Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.

Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.

Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn...

5. Biến đổi là Quy luật

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.

Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.

Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".

Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.

Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.

Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.

6. Từ Tabor đến Golgotha

Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

*

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.

Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.

Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.

Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.

Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.

Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.

Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.

Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện: "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".

*

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.

Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.

Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.

Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.

Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.

- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự ; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.

VII. Giải tán

Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".


 

23. Ánh sáng của đức tin

(Suy niệm của Lm. Hà Ngọc Đoài)

"Người biến hình trước mặt các ông... và từ đám mây có tiếng phán rằng:" Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người." (Mk 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: "Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa." Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: "Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn" Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng 'Ngài là Con Thiên Chúa."

"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. " (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.


 

24. Y phục Người trở nên rực rỡ

Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu "tại sao Thầy mình lại phải như thế?" Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên "Thưa Thầy chúng con ở đây thì thật là hay". Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.

Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người. Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được "lên thiên đàng" khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.

Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu, cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước ao một điều gì khác nữa.

Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là thói quen nói hành nói xấu người khác, # kiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa, không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm mình nữa.

Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các việc lành phúc đức.

Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.


 

home Mục lục Lưu trữ