Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1378499
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ SỰ SỐNG
(Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Minh Chánh)
Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian, trong tư cách là Mục Tử. Vâng Chúa ở cùng chúng ta không gì khác hơn là ban cho chúng ta sự sống đời đời (x. Ga 10,3-28).
Sự sống là lý do duy nhất để Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành đến với con người. Đọc xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng, chúng ta rất dễ cảm nhận về vai trò Mục Tử của Đức Giêsu tại trần gian:
1/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử phục vụ sự sống:
Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, nên dù cuộc sống có lầm than vất vả, Chúa luôn nâng đỡ và chạnh lòng thương chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta. Hai phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều đó là bằng chứng nói lên tình thương của Đức Giêsu Mục Tử đối với đoàn chiên của Ngài:
Lần thứ nhất, khi nhìn thấy đoàn người đông đảo theo mình, Đức Giêsu chạnh lòng thương họ. Và với năm cái bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con ăn no nê và dư thừa mười hai giỏ đầy (x. Mt 14,13-21).
Lần thứ hai, lại một đám đông người theo Chúa không có gì ăn. Chúa đã chạnh lòng thương, vì đã ba ngày họ sống trong cảnh đói khát cũng vì theo Chúa. Rồi từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã hoá ra nhiều để cung cấp cho khoảng bốn ngàn người ăn no nê và con dư thừa được bảy giỏ (x. Mc 8,1-10).
Như vậy, với hai phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì đó cũng là lý do rất chính đáng để chúng ta cảm phục con tim yêu thương của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ngài đến để yêu thương chăm sóc từng con chiên, để phục vụ sự sống cho đoàn chiên. Nhờ vậy đoàn chiên của Chúa sẽ được sống và tăng trưởng. Thế nhưng Đức Giêsu còn là Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên của mình
2/ Đức Giêsu Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên:
Trong đoàn chiên của Chúa không phải ai cũng khoẻ mạnh, không phải ai cũng dồi dào sức sống. Ngược lại có những chiên đau yếu bệnh tật, Đức Giêsu Mục Tử rất cảm thông, nâng đỡ và quan tâm đối với những hoàn cảnh riêng biệt này, nhờ đó sự sống của những chiên này sẽ được phục hồi nguyên vẹn.
Trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, thì cũng là thời gian Chúa Giêsu cứu chữa để phục hồi những chiên đau yếu: Ai câm điếc thì Chúa chữa cho nói và nghe được, ai mù loà thì Ngài cho sáng mắt, ai què quặt thì Chúa chữa để có những bước đi vững mạnh. Và bất cứ chứng bệnh gì, nếu ai gặp được Chúa với tất cả lòng tin, Ngài sẽ đặt tay chữa lành ngay tức khắc (x. Lc 4,40-41).
Đức Giêsu, Vị Mục Tử không những Ngài phục hồi sự sống nơi thân xác của từng con chiên, nhưng Ngài còn phục hồi sự sống tâm linh cho các chiên của mình: Đức Giêsu đã từng trục xuất ma quỷ ra khỏi những ai mà chúng đã ám hại. Ngài rất nhiều lần tha thứ tội lỗi cho những người mà cuộc sống quá khứ của họ đã bóp nghẹt sự tăng trưởng đời sống tâm linh, nhờ đó mà họ sẽ có đời sống mới trong Ngài. Kinh nghiệm từ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu Mục Tử của Matthêu, Giakêu, hay người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa khi Ngài dùng bữa tại nhà một người thuộc nhóm Pharisêu…, thì đó cũng là thời gian in đậm dấu ấn lòng nhân từ của Đức Giêsu nơi những con người này. Dấu ấn nhân từ ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống quá khứ của họ, từ đây họ sẽ vươn lên một cuộc sống tương lai theo thánh ý Chúa, sau khi đã được Chúa phục hồi sự sống bằng ơn tha thứ.
Khởi đầu từ hình ảnh Vị Mục Tử phục vụ sự sống, rồi Vị Mục Tử ấy còn là người phục hồi sự sống cho đoàn chiên. Bao nhiêu việc làm ấy, người Mục Tử mang tên là Giêsu vẫn chưa hài lòng với sứ vụ yêu thương phục vụ trong thế gian. Vì đỉnh cao sứ vụ Mục Tử của Đức Giêsu là khi Ngài tự trao ban sự sống của mình cho đoàn chiên.
3/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử trao ban sự sống:
Đức Giêsu đã nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Như vậy, Đức Giêsu đến trần gian không phải tìm sự sống cho mình, nhưng Ngài tìm sự sống cho đoàn chiên. Sự sống Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên không phải là sự sống tầm thường hay tạm bợ, cũng không phải là sự sống giả tạo hay thiếu phẩm chất. Sự sống mà Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên đó là sự sống muôn đời. Đó chính là lý do mà Chúa đến với chúng ta.
Vì thế trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, Đức Giêsu Mục Tử đã trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, dưới hình bánh và hình rượu. Khi Chúa cầm tấm bành và cầm chén rượu nho trên tay và nói: Này là mình Thầy… Này là chén máu Thầy…, thì đó chính là giây phút Ngài trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, Ngài đặt sự sống của chúng ta trên bản thân Ngài, Ngài đã trở nên người tôi tớ để phục vụ sự sống cho chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ được sống dồi dào. Sống dồi dào đó là cuộc sống phải được nuôi dưỡng bằng chính Máu Thịt của chính Đức Giêsu Mục Tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Vì Chúa đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống laị vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,54-55).
Chiêm ngưỡng hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử, thì đó cũng là mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình như Ngài.
4/ Sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu:
Chúa Giêsu Mục Tử luôn đứng về sự sống, luôn bênh vực sự sống, luôn bảo vệ sự sống. Ngài mời gọi chúng ta là những người có Tôn giáo, những người có Đức tin cũng theo Ngài trên mọi nẻo đường để bênh vực sự sống. Vì Chúa không hề muốn đau khổ và sự chết, Chúa không bao giờ muốn gieo cái chết ở khắp mọi nơi: Như những ai lấy danh Thiên Chúa, danh Tôn giáo để khủng bố nổ bom tự sát làm chết 180 người vô tội, như tại Iraq vào trung tuần tháng tư vừa qua. Chúa cũng không bao giờ muốn vì sự kỳ thị Tôn giáo mà một số người Hồi giáo đã cắt cổ ba người làm việc ở một nhà in Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/4/2007. hay tại Pakistan,hay quân Hồi giáo Hizbul đã chặt đầu anh Manzoor Ahmad Chad 33 tuổi, sau đó chúng đã để đầu anh trong một Đền thờ Hồi giáo vào ngày 14/4/2007 vừa qua…
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa luôn mong ước con người hãy lấy tình yêu mà đối sử với nhau. Chúa luôn mong ước con người hãy noi gương Chúa gieo nền văn minh sự sống trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Chúa luôn mong ước con người hãy sống sứ vụ mục tử của Ngài là bảo vệ sự sống cho nhau.
Như vậy, khi chúng ta biết hy sinh chính mình để chạnh lòng thương nâng đỡ những người đói khát, những người đau yếu, biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Thì đó chính là lúc chúng ta đang sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu.
Và khi chúng ta biết bảo vệ và bênh vực Giáo Huấn về sự sống của Giáo Hội, biết thực hành nghiêm túc và tránh xa những gì làm tổn thương và nguy hại đến Giáo Huấn ấy, thì đó cũng là lúc chúng ta đang trở thành chứng nhân biết bảo vệ sự sống cho nhau. Vì sự sống con người là do Chúa ban, chính Chúa làm chủ sự sống ấy. Con người không được phép dùng sự tự do của mình để huỷ diệt sự sống, để gieo rắc nền văn minh sự chết trong môi trường mình đang sống.
Lạy Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin cho đời sống chúng con luôn chiếu toả hình ảnh Người Mục Tử của Chúa, luôn biết xây dựng và gieo rắc nền văn minh sự sống khởi sự từ chính cá nhân, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại chúng con. Amen.
67. Nghe tiếng chủ chăn – Sr. Nguyễn
Một đàn chiên ngày ngày được chủ chăn dẫn đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi, uống nước trong lành, nằm nghỉ bên bờ suối mát… Chúng thật no đầy, vui thú và bình an… nhờ có chủ chăn khôn ngoan và dũng mạnh. Người vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành. Người bênh đỡ đàn chiên chống lại ác thú. Người biết đặc tính, lối sống của từng con chiên. Người thích nghi với hoàn cảnh của chúng, tận tụy yêu thương chúng… Chúng tin tưởng, phó thác cho sự hướng dẫn của người. Chúng nghe tiếng còi người thổi, nhận ra tiếng bước chân người đi, nghe giọng nói của người từ xa, biết ý định và đường lối của người và đi theo người…
Đây là hình ảnh lý tưởng về người mục tử nhân lành mà dân du mục Aram, tổ phụ của Irael, có trong tâm trí về Thiên Chúa. Chúa đã dẫn dắt dân Ngài như vậy. Ngài đã đặt các tiên tri, tổ phụ, thẩm phán, các vua để chăm sóc dân Ngài trong thời Cựu Ước. Sau đó, chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người để trực tiếp hướng dẫn dân Ngài. Ngài yêu thương chăm sóc tất cả mọi người. Một cuộc sống mới được xây dựng trên “sự hiểu biết lẫn nhau giữa Chủ chăn và đàn chiên.” Ngài ban cho người Lời Hằng Sống để “Ai nghe và tuân giữ Lời Ngài thì được sự sống đời đời.” Ngài đem về những tâm hồn lạc lối. Ngài đã thí mạng sống vì đàn chiên. Chính tình yêu tuyệt đối Ngài chữa lành vết thương của họ và duy trì, bảo đảm cho họ sự sống đời đời.
Trước khi tận hiến mạng sống mình trên thập giá, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô để trao lại chức vụ chủ chăn trong Giáo hội; và Ngài hứa sẽ ở cùng và hoạt động trong Giáo hội cho đến tận thế. Nhất là Ngài gìn giữ Phêrô và các Đức Giáo hoàng kế vị khỏi quyền lực ma quỷ, và thay mặt Ngài dạy dỗ những giáo huấn về đức tin và luân lý.
Các vị chủ chăn là những người trước tiên được Chúa gọi và chọn, và họ tự nguyện đáp lời làm môn đệ Chúa Kitô. Tất cả đều nung nấu trong lòng một đức tin vững mạnh và một tình yêu quyết liệt. Họ từ bỏ thú vui hưởng hạnh phúc gia đình để theo một lý tưởng, một tiếng gọi. Họ luôn lắng nghe Chúa và nối kết tâm hồn, sự sống, và tình yêu của mình với Đức Giêsu, Đấng là thủ lãnh tối cao của các chủ chăn; để sức sống, tình yêu và ý Chúa được chảy tràn trong tim, trong não của họ; để qua họ, Chúa đến với dân Ngài, tiếp tục hướng dẫn họ về nguồn nước trường sinh.
Chúng ta muốn thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu nơi Giáo hội trần thế, để một ngày kia được đưa vào đàn chiên Thiên quốc, nơi thành thánh Giêrusalem trên Trời, chúng ta hãy lắng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Chúa và các vị chủ chăn trong Giáo hội. Chúa nói với ta qua Giáo hội, qua Lời Ngài trong Kinh thánh, và trong chính tâm hồn mỗi cá nhân.
Chúng ta hãy biết lắng nghe Chúa nói trong cầu nguyện. Như con chiên nhận biết tiếng chủ chăn thế nào thì khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi nhận biết tiếng Chúa Giêsu. Cầu nguyện là bước vào mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó ta nghe được rõ và chính xác những gì Ngài nói. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng và các vị chủ chăn dưới quyền ngài, để các ngài luôn được đầy tràn ơn Chúa mà dẫn dắt chúng ta; hãy giữ mối liên lạc khắng khít yêu thương giữa chủ chăn và đàn chiên. Ta yêu kính Chúa như thế nào, cũng hãy kính yêu và vâng phục các ngài như vậy vì các ngài là đại diện Thiên Chúa; đừng nhìn các ngài bằng con mắt trần tục, nhưng hãy nhìn thấy tình yêu và quyền năng cứu độ của Chúa trong các ngài. Ta hãy xin Chúa ban cho thế giới thêm nhiều chủ chăn, nhiều ơn gọi làm linh mục, tu sĩ… và hãy cộng tác tích cực với sứ mạng của các ngài, để mọi người nghe được tiếng Chúa; giúp các chiên trong đàn đi trong đường lối Chúa, và giúp các chủ chăn đưa những chiên lạc về đàn… Chúa sẽ ch¨²c phúc cho những tâm hồn thiện chí và đầy yêu thương, luôn sống trong Lời Ngài.
68. Mục tử nhân từ – Lm. Minh Vận
Trong các hang Toại Đạo tại Roma, ngày nay du khách còn thấy nhiều bức tranh vẽ trên tường vách về Chúa Kitô và các hình ảnh trong Sách Thánh; nhưng có một hình ảnh thời danh và hấp dẫn nhất, đó là hình ảnh Chúa Kitô, vị mục tử hiền lành, âu yếm khoác con chiên trên vai, với dung mạo nhân từ khả ái.
CHÚNG TA LÀ ĐOÀN CHIÊN CHÚA
Trong Cựu Ước, Đức Giavê tự xưng là Mục Tử chăn dắt đoàn chiên Israel; trong Tân Ước, Chúa Kitô cũng tự xưng Ngài là Chúa Chiên Lành với dụ ngôn con chiên lạc. Ngài đã tỏ tình thương yêu đoàn chiên đến hiến mạng sống vì đoàn chiên. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa còn tự xưng mình là cửa chuồng chiên.
Chúng ta là đoàn chiên Chúa, chính Thánh Phêrô Tông Đồ đã khuyên: “Xưa kia anh chị em như những con chiên lạc, giờ đây anh chị em đã trở về cùng vị Mục Tử và Đấng canh giữ linh hồn anh chị em. Chúa Kitô là cửa chuồng chiên, cửa duy nhất và cần thiết”. Còn chúng ta là đoàn chiên Chúa. Chúng ta muốn được cứu rỗi, chúng ta phải qua cửa là Chúa Kitô. Chuồng chiên chính là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô đã thiết lập. Công Đồng Vaticanô II đã dạy: “Giáo Hội là chuồng chiên, mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết. Giáo Hội là Đoàn Chiên mà Chúa Kitô là Mục Tử. Tuy được các mục tử loài người chăn dắt, các chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Từ và Thủ Lãnh các mục tử dẫn dắt và nuôi dưỡng, Ngài đã phó mình vì Đoàn Chiên” (G. H. # 5).
CHÚA KITÔ, GƯƠNG MẪU ĐOÀN CHIÊN
Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: “Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta, lưu lại cho chúng ta tấm gương để chúng ta theo vết chân Người”. Ngài còn nhấn mạnh hơn: “Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại. Bị hành hạ, Người không ngăm đe. Chính người đã gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta. Để khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta được sống cho sự công chính”.
Chúa Kitô là Thủ Lãnh, không như các biệt phái và thầy thông giáo xưa, cũng không như các vị lãnh tụ xã hội ngày nay, họ nói mà không làm; chồng chất những gánh nặng và lề luật khắt khe trên người khác mà chính họ lại không tuân giữ, không thèm động tay vào. Trái lại, Chúa truyền dạy và Chúa đã làm, tự đặt mình như mẫu gương cho chúng ta noi theo bắt chước khi kêu gọi chúng ta: “Thầy đã làm gương để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm”. Chúa Kitô, Mục Tử duy nhất của chúng ta muốn chúng ta tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Ngài, như chính Ngài đã tuân giữ các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa Cha. Chúa Kitô với tấm lòng người con thảo hiếu, Ngài đã thưa lên với Chúa Cha khi đến trần gian: “Lạy Cha, này Con xin đến để thực thi thánh ý Cha” (Heb 10:7).
ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CHỦ CHĂN
Chúng ta là những con chiên trong Đoàn Chiên của Chúa Kitô, Chúa là Mục Tử, nhưng chúng ta đã biết lắng nghe và thực thi theo thánh ý Chúa, đúng với tư cách là những con chiên ngoan thảo nhận biết và vâng theo tiếng vị Mục Tử chưa? Vì, đã là những con chiên ngoan thảo luôn biết sẵn sàng lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Chủ Chăn, như Chúa đã dạy: “Ta nhận biết các chiên của Ta và các chiên của Ta nhận biết Ta”.
Chiên phải nghe theo tiếng Chủ Chăn, không nghe theo tiếng người lạ. Nhưng trong thực tế, nhiều người trong chúng ta đã rất khó nghe tiếng Chúa; trái lại, thích nghe theo những luận điệu đường mật của kẻ khác, vì nó hợp với bản tính tự nhiên, mặc dầu trái với lương tâm chân chính của chúng ta, trái với luật Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Có những người còn phàn nàn kêu trách: “Thời buổi văn minh mà, Giáo Hội sao mà khắc khe quá!”
Chiên phải bước theo vết chân và đường lối Chủ Chăn, không đi theo người lạ; trái lại, còn phải trốn tránh chúng nữa. Nếu chúng ta không trốn tránh những người luôn tỏ ra những luận điệu đả kích, những lý thuyết chống đối trái nghịch với các giáo huấn và đường lối của Giáo Hội, bọn họ thường hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, một ngày kia chúng ta cũng sẽ bị bọn họ quyến rũ và sẽ mắc mưu của họ. Chúng ta sẽ bị gục ngã theo họ, sẽ mất dần ý thức tội lỗi, để rồi cũng sẽ vùi dập lương tâm, theo con đường trụy lạc như bọn họ.
Kết Luận
Là con cái của Chúa trong Đoàn Chiên Chúa Kitô, chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Chúng ta đã luôn biết lắng nghe và thực thi các giáo huấn và mệnh lệnh của Chúa chưa? Thánh ý Chúa luôn được tỏ ra nơi tiếng lương tâm chân chính, nơi chủ ý của các vị đại diện Chúa, nơi luật lệ và các giáo huấn của Giáo Hội, nơi Lời Chúa trong Thánh Kinh.
Lạy Mẹ, Mẹ là Đấng đã được Chúa khen ngợi: “Hạnh phúc hơn nữa cho Mẹ, vì Mẹ đã luôn lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa”. Xin Mẹ giúp chúng con noi theo gương Mẹ, luôn suy niệm và sống Lời Chúa.
69. Chứng nhân mới – Trần Quang Huy Khanh
Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, đặc biệt, là những chứng nhân của thời đại chúng ta đang sống. Người tông đồ hay chứng nhân cho Chúa Giêsu hôm nay nếu thiếu những yếu tố này sẽ trở thành kệch cỡm, giả hình và thiếu hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II đã nhận xét về con người chứng nhân của thời đại này, và theo Ngài, thì thế giới hôm nay không thiếu những nhà giảng thuyết, nhưng thiếu những chứng nhân.
Nhận xét trên đến từ phản ảnh trung thực cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Ngài đến trong trần gian, sống giữa đời, ẩn dật và suy niệm đúng 30 năm. Ba mươi năm cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa Cha. Đó cũng là 30 năm Ngài nhìn thấy Chúa Cha, và Chúa Cha nhìn thấy Ngài: “ChaTa và Ta là một” (Gioan 10:30). Và sau khi đã nghe tiếng Chúa Cha, hiểu được ý của Chúa Cha, Ngài đã lên đường hành đạo. Ba năm rao giảng Tin Mừng, để rồi kết thúc bằng thảm kịch trên Núi Sọ. Nhờ “nghe-thấy-theo”, Chúa Giêsu đã trở thành căn nguyên Ơn Cứu Độ của nhân loại.
Thật vậy, hình ảnh người chứng nhân của thế kỷ chúng ta đang sống hôm nay cũng chính là hình ảnh mà Chúa Giêsu đã gợi ý, và đã được Thánh ký Gioan ghi lại bằng một hình ảnh quen thuộc: Những con chiên trong một đàn chiên. Những con chiên hiền lành đã nghe, thấy, và đi theo người chăn chiên.
Nghe tiếng Chúa. Điều quan trọng nhất của người chứng nhân là phải nghe được tiếng Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Ngài, chắc chắn chúng ta không biết Ngài là ai, và điều gì Ngài muốn chúng ta làm. Trong tâm lý phát triển, đứa trẻ khi mở mắt chào đời việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ. Thính giác hoạt động trước giúp đem em lại gần với mẹ. Do nghe được tiếng mẹ, em tìm được sự săn sóc, tìm được hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn tìm thấy Chúa Giêsu cũng phải biết nghe và nhận ra tiếng Ngài.
Nhưng làm thế nào để nghe và nhận ra tiếng Chúa, một tiếng nói êm ái, dịu dàng và thân thương như tiếng đập của con tim người mẹ hiền, như tiếng thì thầm của đôi tình nhân, và như tiếng gió thoảng của Thần Khí Thiên Chúa thổi qua trong cuộc đời của mỗi người. Đôi lúc tiếng ấy cũng vang vọng đâu đó trong những tiếng nổ long trời, lở đất của bom đạn, của chết chóc và máu lửa. Và cũng đôi lúc, tiếng ấy lại nghe thấy trong những lao đao, bệnh tật, nghèo túng, và những khắc nghiệt của kiếp người. Tóm lại, tiếng Chúa vang vọng khắp đó đây và trong rất nhiều cảnh ngộ của cuộc đời. Làm thế nào để nghe được những tiếng đó. Cầu nguyện, thinh lặng, và khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng đã nghe được tiếng Cha của Ngài trong âm thầm và cầu nguyện dưới mái nhà Nagiarét.
Sau khi đã nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là em bé nhìn rõ mẹ, phân biệt được mẹ với người lạ. Từ đó, em chỉ hạnh phúc khi nhìn mẹ, ngược lai, em hoảng sợ và khiếp đảm khi nhìn những người khác không phải là mẹ. Người Kitô hữu, sau khi nghe và nhận được tiếng Chúa, họ còn phải nhận diện được Ngài, cũng như ở trong tầm nhìn của Ngài. Họ không được đi xa khỏi tầm nhìn Ngài đến độ Ngài không nhìn ra họ, vì làm như vậy họ sẽ bị lạc đường: “Ta biết chiên Ta và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27).
Như hành động nghe tiếng Ngài, người Kitô hữu lúc này phải nhìn được Ngài qua từng nhân vật, từng cảnh vật, và từng biến cố cuộc đời. Họ phải có cái nhìn xuyên thấu bằng cặp mắt đức tin để khám phá ra dung nhan Ngài ẩn hiện chung quanh mình qua những người mình gặp gỡ, để thương yêu, tha thứ và giúp đỡ; cũng như qua những biến cố mà họ phải đối diện trong cuộc sống để không thất đảm, hốt hoảng và mất niềm tin.
Trong vai trò chứng nhân, người Kitô hữu không những chỉ nói về Chúa Giêsu, mà còn phải biết tường tận Ngài là ai, hình dáng, và ngôn ngữ Ngài như thế nào. Vì người chứng nhân của thời đại mới không chỉ nói về Chúa Giêsu, viết về Chúa Giêsu, mà còn sống đúng như những gì mình đã nghe và đã thấy nơi Ngài. Kết quả của đường lối chứng nhân này sẽ thu hút người nghe vì họ tin rằng họ đang nghe những gì mà người nói với họ đã xác tín và hành động như vậy.
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gioan 10:27). Đặc tính trổi vượt nhất của người chứng nhân là sống và làm chứng cho những gì mình nói. Các Tông Đồ xưa là những người đã thấy, đã nghe, và đã sống những gì các Ngài rao giảng. Họ là những người không những thấy những vết đinh nơi tay chân và vết đâm nơi cạnh sườn Chúa. Hơn thế nữa, như Tôma, họ đã xỏ ngón tay vào những vết đinh, và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa, để rồi thâm tín và thốt lên: “Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28).
Nghe được tiếng Chúa, nhìn thấy Chúa, sống chứng nhân những gì mình đã nghe và đã thấy. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, đây là điều khó khăn nhất nhưng cũng quan trọng nhất. Cũng như trong đời sống chứng nhân, đây là điều thực hành khó nhất nhưng mang lại hoa trái nhất. Vì khi nói về Chúa Giêsu, người nghe phần đông sẽ không hiểu gì và cũng chẳng mường tượng ra Ngài là ai. Nhưng nếu người chứng nhân minh chứng cho họ thấy bằng hành động của mình Chúa Giêsu là ai, lập tức những lời nói của người chứng nhân sẽ có ảnh hưởng rất rõ ràng.
Chúa Giêsu biết Ngài sắp về cùng Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các Tông Đồ, để các ông vào đời và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ. Ngài biết sứ vụ này không dễ dàng, vì các ông sẽ phải gặp nhiều thử thách đến từ việc cứng lòng tin của con người, nhất là từ những cám dỗ của ma quỉ. Chính vì thế, Ngài đã hiện ra với các ông, và như lần này, Ngài đã dậy các ông về một phương thức truyền giáo thiết thực với tâm lý con người, đó là “nghe-thấy-theo”. Ngài muốn các ông cũng như những ai sau này sẽ làm chứng nhân cho Ngài phải hiểu rằng chính họ là người trước hết phải nghe được tiếng Ngài, biết được Ngài, và nhất là sống với Ngài. Như vậy, từ hôm nay, mỗi khi tôi gặp những khó khăn, những người làm cho tôi khó chịu, và nhất là những bất trắc trong cuộc sống, tôi phải dừng lại ít giây phút để hỏi mình: “Chúa Giêsu đó có phải không? Ngài đang muốn nói với tôi điều gì? Và Ngài muốn tôi làm gì trong vai trò chứng nhân cho Ngài giữa dòng đời hôm nay?”
70. Quên mình- Nguyễn Kim Thanh
Hình ảnh người sĩ quan hải quân trong trận chiến chống lại kẻ thù đến xâm chiếm lãnh hải của tổ quốc. Xin được kể lại để ca ngợi tấm gương một con người thủ lãnh. Nó còn là gương sống động của người lãnh đạo đã dám hy sinh mạng sống mình vì các binh sĩ thuộc quyền, vì tổ quốc quê hương. Biết trước được rằng chiến hạm của ông sẽ bị chìm trong vài giờ vì trúng đạn pháo của địch. Vị sĩ quan chỉ huy đã lập tức điều động, phân tán binh sĩ xuống phao cứu nạn và thoát hiểm an toàn. Còn riêng mình, ông đã can đảm đứng trên boong tầu ở tư thế chào, mặt hướng về tổ quốc. Chiếc tầu chìm xuống lòng biển kéo theo cả vị chỉ huy hào hùng, bất khuất. Ông đã được chính phủ tri ân và ca tụng trên các phương tiện truyền thông. Cả báo chí quốc tế cũng coi cái chết của ông là một mẫu gương can đảm, hy sinh tuyệt vời.
Qua bí tích rửa tội, người tín hữu thật sự trở thành dân riêng của Thiên Chúa, thành những chiên con thuộc đàn chiên của Ngài. Ngài là chủ của đàn chiên. Ngài lo chăm sóc chiên của Ngài: lo tìm đồng cỏ, canh chừng thú dữ, tiên liệu thời tiết khí hậu cho chiên được khoẻ, để ý đến từng con một. Phân loại để chăm sóc đặc biệt những chiên bị thương, yếu bệnh, biếng ăn…
Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta là một thông hiệp hai chiều đối với đàn chiên hạnh phúc, an bình.
Nhìn lại lịch sử các tổ phụ, chúng ta cũng thấy được các tổ phụ có nhiều chiên, vì các ngài là dân du mục. Môi sê đã chăn chiên cho nhạc phụ suốt 40 năm trời. Tiên tri Amos là một người làm nghề chăn chiên. Ngay chính David cũng được chọn ngay sau đàn chiên của mình. Chính các vị vua Do thái cũng được coi như một mục tử, cai trị, cai quản dân như người chăn chiên. Nhà vua có quyền trên đàn chiên, cùng đồng hành với chiên và yêu thương chúng.
Sau thời gian ký thế ngắn ngủi, Chúa đã đặt cho Phêrô làm chủ, lãnh đạo đàn chiên. Trong cuộc “sát hạch” cả thể với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không”. Chính lúc Phêrô xác quyết tình yêu, Chúa đã trao quyền mục tử cho Phêrô: “Hãy chăn dắt các chiên con của Ta, và hãy chăn dắt chiên mẹ của Ta”. Ngày nay, quyền đó được truyền lại cho các vị giáo hoàng kế vị và các giám mục. Các linh mục là thừa tác viên của các giám mục. Đó chính là việc huấn luyện chủ chiên cho đàn chiên Chúa.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với nhiều loại thú hoang dã đang có nguy cơ bị diệt chủng. Chúng đang ở mức báo động đỏ bị xoá sổ bởi việc phá rừng, săn bắt. Cho nên cả thế giới đã lên tiếng và bắt tay vào việc bảo vệ các loài thú quý hiếm. Họ phân công trực rừng để bảo vệ chúng, từ việc cung cấp lương thực đến việc chữa trị bệnh tật. Nhiều địa danh mới được gọi là Thảo cầm viên bảo vệ động vật quý hiếm.
Các tín hữu cũng vẫn luôn có nhiều kẻ thù rình rập. Chúng ta gọi chúng: thế gian, xác thịt, ma quỷ. Bảy mối tội đầu nằm sâu chìm trong mỗi con người, chúng vùng lên bất cứ lúc nào, mọi nơi, mọi lúc. Vũ khí bén nhậy mà ma quỷ dễ chiến thắng chúng ta là chính những: Vui, Giận, Hờn, Sợ, Yêu, Ghét, Muốn. Vậy để cho tâm hồn được bình an, để cho cuộc sống mỗi con chiên công giáo được chủ chăn bảo vệ, không vào tầm nhắm của kẻ thù. Chúng ta cần có những điều thiết cần đối với chủ chiên mình như sau: Tin tưởng, Lắng nghe, Đồng hành.
Người chăn chiên luôn nhận biết chiên của mình. Như vị y tá biết rõ bệnh nhân mà cô săn sóc. Họ trở nên cái bóng của nhau. Không quản ngại thời gian, sức khỏe, sẵn sàng hy sinh, nếu cần cả mạng sống mình nữa. Sự thân thiện, gắn bó, gần gũi cũng là chìa khoá cho sự trung thành giữa chủ và chiên. Không thể có quan hệ mật thiết với người khác được, một khi ta vẫn cứ khăng khăng giữ khoảng cách xa lạ, thiếu thân thiện. Người chăn chiên luôn lấy khuôn mẫu của Đức Kitô để sống: Hiền lành, Nhân từ, Nhẫn nại, Hy sinh.
Để trở nên một chủ chiên đúng hiệu và đúng ý Chúa, đòi hỏi người chủ chiên ấy cần sống và hạ quyết tâm thực hành điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm: “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”. Câu nói này phải được khắc ghi đậm nét trong trái tim người mục tử. Hình ảnh hy sinh và xả thân vì thuộc quyền, vì tổ quốc của người sĩ quan hải quân kể trên đã cho chúng ta thấy rõ điều này.
Qua bài tin mừng lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta thấy được cánh đồng truyền giáo đang thật cần thiết. Đòi hỏi cả chủ lẫn chiên không thể ngồi không mà nhìn các linh hồn bị hư mất, sa chìm. Hãy cùng nhau cứu các linh hồn. Hãy hướng tâm hồn lên Chúa, hãy “uỷ lạo” vào kho thiêng trên trời bằng tất cả những gì có thể để viện trợ, tiếp viện cứu các linh hồn. Người mục tử cũng như chiên trong đàn luôn áp dụng Lời Đức Kitô: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng biết Ta”.
Xin Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, là Mẹ các chủ chiên, Mẹ của nhân loại ban cho hết mọi người chúng ta ơn bền đỗ, trung thành với nhiệm vụ được trao. Để xứng đáng lãnh nhận lời hứa của Con Mẹ vì chúng con biết Chúa, và Chúa biết chúng con.
71. Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: “Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao.”
Tại sao bị vợ con bỏ.
Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:
“Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng.”
Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa. Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?
Khởi sự tác giả Gioan đặt ta vào bối cảnh lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, trong đó Đức Giêsu cho thấy chính Người là Vị Cứu Tinh Mêsia (Ga 10,22-31) và là Con Thiên Chúa (cc. 32-39).
Lễ cung hiến Đền Thờ là dịp để người Do Thái mừng chiến thắng vẻ vang do anh em dòng họ Macabê mang lại. Đó là cuộc chiến thắng để rửa nhục cho Israel. Suốt ba năm (167-164 trước CN) quân Syria đã xâm chiếm lãnh thổ dân Thiên Chúa. Họ đã làm cho Đền Thờ ra ô uế bằng cách dựng tượng thần Ba-an ngay trên bàn thờ nơi dân Israel thường dâng của lễ toàn thiêu cho Giavê Thiên Chúa (1Mcb 1,54; 2Mcb 6,1-7). Đầy lòng căm phẫn, tướng Giuđa Macabê đã nổi dậy đánh đuổi quân Syria và thiết lập một bàn thờ mới. Bàn thờ này cùng với Đền Thờ đã được tái cung hiến (1Mcb 4,41-61) với lễ kỷ niệm được cử hành mỗi năm.
Hiến dâng bản thân làm bàn thờ
Điều mà tác giả Gioan ám chỉ là: chính Đức Giêsu hiến dâng bản thân Người làm bàn thờ. Điều đó Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rất rõ khi nói: Bàn thờ là nơi mà Giáo Hội được quy tụ lại; đó chính là “biểu tượng về Đức Kitô hiện diện giữa cuộc tập họp của những ai tin theo Người: Đức Kitô vừa là lễ vật hy sinh được dâng để ta được giao hoà, đồng thời Người còn là của ăn từ trời cao tự hiến để nuôi ta.” (số 1383).
Riêng đoạn Tin Mừng Ga 10,22-29 cho thấy tột đỉnh của những cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Đây là cuộc tranh cãi chót khiến giới hữu trách Do Thái quyết tâm bắt Đức Giêsu. Màn Tin Mừng này chia làm hai; ở giữa là biến cố người Do Thái toan tính ném đá Đức Giêsu.
1. 22 đặt ta vào bối cảnh của lễ Cung Hiến Đền Thờ vào trung tuần tháng 12, kéo dài 8 ngày.
2. 23 định vị cuộc tranh luận gay cấn diễn ra nơi hàng hiên hình thang khổng lồ bao quanh Đền Thờ Giêrusalem. Hàng hiên này ở phía thung lũng Khê-ron quen gọi là hàng hiên Salomon, có lẽ vì cổ kính nhất nên được kể như do chính vua Salomon xây dựng.
3. 24 nối lại việc Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng Người là Đức Kitô và là Con Người. Những người như chị phụ nữ người Samari (Ga 4,25-26) hay như anh mù từ thuở mới sinh (Ga 9,36-37), đều là những cá nhân sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu là vị Thiên Sai. Còn ở đây, ngược lại, Đức Giêsu bị bao vây và bị thách đố do những con người đến với ý đồ để bắt bớ Người mà thôi.
4. 25 Đức Giêsu vạch cho người Do Thái thấy nguồn gốc của mọi sự là CHA. Do đó Người đòi hỏi ai nấy phải bày tỏ một niềm tin tuyệt đối bằng cách thuộc về Người để có thể qui về Cha là nguồn gốc của họ.
5. 26 Khi Đức Giêsu của sách Tin Mừng Gioan nói với người Do Thái rằng “các ông không tin tôi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi,” Người ám chỉ về một cộng đoàn hết sức cụ thể, đó là cộng đoàn Kitô hữu dưới sự chăm sóc của Gioan. Cộng đoàn ấy gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và được tách biệt khỏi những người không thuộc về Đức Giêsu. Cộng đoàn ấy biết mình sống dưới sự che chở của Đức Giêsu và của CHA Người, cho nên mọi người trong cộng đoàn đều được an tâm vững dạ.
Thuộc về ai
1. 27-28 đối chiếu cách ăn ở trung tín của các chiên dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Mục Tử, ngược hẳn lại với thái độ cứng tin của người Do Thái. Ở đây Đức Giêsu nhắc lại “tính cách thuộc về” của các chiên đối với Người: chúng nghe tiếng Người (Ga 10,3-16); chính Người biết rõ các chiên của Người (cc. 3,14); chúng theo Người (cc. 10,4) và Người ban cho chúng sự sống đời đời (10,9-10).
2. 29-30 cho thấy các chiên được an toàn dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu là vị mục tử nhân hậu như Người đã thưa với Cha “Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất” (Ga 17,12). Cha là Đấng đã ban chúng cho Người. Vì Người và Chúa Cha là một nên không ai cướp được chúng khỏi Người, bởi lẽ Chúa Cha thì lớn hơn tất cả, nên không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
3. 31-39 cho thấy giữa bối cảnh thù địch của người Do Thái, Đức Giêsu vẫn tiếp tục tự mạc khải và tự hiến mình cho họ và cho mọi người:
– Chính Chúa Cha thánh hiến Người và sai Người đến thế gian (c.36). Thân Thể Đức Kitô phục sinh chính là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho loài người (Ga 1,14). Đó là nơi loài người có thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và trong Sự Thật (Ga 4,23-24). Cho nên Đức Kitô mới thực sự là Đền Thờ được cung hiến cho Thiên Chúa một cách hoàn hảo và trọn vẹn.
– Đức Kitô đòi mọi người tin vào các việc Người làm (c.38). Các việc ấy bao gồm toàn bộ công trình cứu độ do Người thực hiện: Người đến là để mạc khải cho nhân loại biết Chúa Cha; nơi Người chính Chúa Cha cũng tự mạc khải (c. 38).
Tất cả được nên một
Vậy bài Tin Mừng hôm nay tuy chỉ là một đoạn văn ngắn nhưng đã là một bước chuẩn bị cho lời cầu xin nơi bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19). Và trong bữa Tiệc Ly ấy, Đức Giêsu còn cho biết Người không chỉ cầu xin cho Mười Hai tông đồ mà thôi “nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như, lạy CHA, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.” (c. 20-21).
Trở lại với người bố rưng rưng hai hàng lệ trong câu chuyện nói trên. Người bố ấy đau khổ vì vợ ông và bốn con ông là những người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa! Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói tới mối tương quan thâm sâu là mối tương quan khiến cho người này cảm thấy mình thuộc về người kia, nhưng với Đức Giêsu mối tương quan ấy có cơ sở thực là vững vàng:
– Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êdêkien đã từng mô tả Giavê Thiên Chúa là vị Mục Tử lý tưởng: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta? Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng; con nào mập béo, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng.” (Ed 34,15-16). Trong Tin Mừng của Gioan, chính Đức Giêsu tự mô tả mình là vị Mục Tử lý tưởng đó với điều đặc sắc là: Người biết các chiên của Người để chăm sóc và yêu thương chúng vì chúng thuộc về Người; chính Người ban cho chiên của Người sự sống đời đời (c. 28). Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Mối tương quan giữa Đức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng “không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (c. 28). Lý do “vì Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30) mà Chúa Cha “lớn hơn tất cả” thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu!
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn nghĩ điều gì có thể thực sự an ủi người bố đau khổ trong câu chuyện nói trên: có phải việc ông được biết con ông học hành ra sao nơi học đường? Hay việc ông được chung sống trở lại với vợ con ông? Hay bạn cảm thấy chưa được cung cấp đủ tin tức về người bố đau khổ nói trên? Nhưng dựa theo bài Tin Mừng hôm nay, bạn có thể nói gì với người bố đó nếu bạn được yêu cầu và nếu bạn biết rõ người đó có chung một đức tin Kitô giáo với bạn?
Bạn nghĩ gì về câu nói của Chúa Giêsu áp dụng với trường hợp bạn khi Người nói “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”? (cc.27-28) Điều gì bạn thấy là tâm đắc nhất trong câu nói đó của Chúa Giêsu?
72. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
Có những thí nghiệm gần đây cho thấy: một bà mẹ mang thai, hai vợ chồng đặt tên cho con của mình ngay từ khi siêu âm và biết nó là con trai hay con gái. Khi đã đặt tên cho con, ông bố hằng ngày trước khi đi làm hoặc đi đâu về đều gọi tên của bé. Rồi một ngày nọ, họ cho rất nhiều người đàn ông đi qua và cất tiếng gọi. Bé vẫn nằm im trong dạ mẹ. Nhưng đến lượt bố của em, ông cất tiếng gọi, vừa dứt lời, em đã ọ ẹ và chân tay vẫy đạp trong bụng mẹ. Quả thật là một điều kỳ diệu. Thật vậy, cũng tương tự, ngày nay, người ta muốn cho con của mình sau này làm gì thì các bà mẹ gợi hứng cho chúng ngay từ khi bé còn trong bụng mình bằng những hình ảnh hay hành động hoặc thính giác của bà mẹ hằng ngày.
Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành được khởi đi từ thời Cựu Ước: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ.” (Tv 23,1-4) Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel. Người yêu thương và chăn dắt dân của Người. Hình ảnh người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, nhưng thật đáng buồn vì các vua chúa thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò mục tử của mình mà lại còn đi ngược lại. Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng.” (Ez 34,2-4.9-10.23)
Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
Vào thời Chúa Giêsu, người ta thường hay nuôi chiên. Mỗi đàn chiên thì đều có mục tử, tức người chăn chiên. Người chăn chiên thường dẫn chiên đi ăn trong hoang địa. Tối về, họ lùa chiên vào nơi quy định. Tuy nhiên, cũng có thể nhiều đàn chiên ở cùng một chỗ, vì thế có sự lẫn lộn; nên chủ đàn chiên nào thì có ký hiệu riêng của mình, và khi họ cất tiếng thì tất cả các chiên của họ sẽ đi theo. Người mục tử tốt là người biết chiên của mình, biết rõ từng con một, để chăm lo cho chúng. Người mục tử tốt cũng là người biết dẫn chiên của mình đến những vùng cỏ non, có nhiều nước, để cho chiên thoả thuê ăn uống hầu được to béo, khoẻ mạnh.
Chúa Giêsu đã tự nhận mình chính là Mục Tử Nhân Lành. “Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Khác hẳn với hình ảnh mục tử trong Cựu Ước nơi các vị vua.
Thật không có gì đau khổ cho bằng trong cuộc sống ta không được ai biết đến. Và cũng thật bất hạnh khi trong các mối tương quan ta không được ai tôn trọng và tin tưởng nữa. Thấu hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã dùng động từ “biết” để diễn tả một mối tương quan thân mật giữa chủ chiên và đàn chiên. “Biết” theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ là một sinh hoạt thuần tuý tri thức hay văn hoá, mà “biết ở đây còn là sự gắn bó và yêu thương”. Chúa Giêsu biết từng con chiên đồng nghĩa với việc Ngài yêu thương từng con chiên một. Ngài cũng biết tên của từng con và gọi chúng khi cần, ấy là Ngài đang đi vào sự hiện hữu của từng con chiên, và ngược lại. Với Ngài, từng con chiên là một hiện hữu duy nhất trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài luôn coi trọng từng con một, đến nỗi Ngài nói: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha; Tôi và Cha tôi là một.” Thật hạnh phúc cho chúng ta vì có được Vị Mục Tử tuyệt vời là chính Chúa Giêsu.
Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ.
Tại sao phải cầu nguyện cho mục tử? Thưa vì các ngài cũng chính là mục tử trong Giáo Hội, thay mặt Chúa để dẫn dắt dân của Người. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, biết từng con chiên để: chăm lo cho từng con chiên. Con chiên nào bị thương thì băng bó, con nào bị ốm thì lo thuốc thang, con nào đi lạc thì tìm về, con nào có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt thì bảo vệ, con nào bị bắt thì liều mạng để cứu chúng. Được như thế, các ngài quả là mục tử nhân lành, đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Các ngài là những mục tử như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước.
Ngoài việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ, Giáo Hội đặc biệt hướng về các bạn trẻ. Các bạn là tương lai của xã hội và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Giáo Hội đang trông chờ ở nơi các bạn. Giáo Hội cũng hy vọng các bạn sẽ trở thành những linh mục và tu sĩ tốt lành hoạ lại chân dung của Vị Mục Tử Tối cao là Chúa Giêsu.
Quả thật, hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một xã hội có biết bao lựa chọn, và đôi khi có những chỉ dẫn hay thông tin cũng như quả quyết sai lầm. Hoặc nói theo ngôn ngữ hình tượng: “Chân lý nửa vời”. Trong một xã hội như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp, một chân lý tuyệt đối, để phục vụ con người ngày hôm nay, nhằm đem lại cho họ niềm hy vọng. Nhưng điều quan trọng là làm sao để các bạn nhận ra được tiếng Chúa gọi và chọn các bạn vào trong vườn nho Giáo Hội để phục vụ trong vai trò là mục tử của Chúa? Thưa Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2013 đã vạch ra cho các bạn, ngài viết: “Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta.” Đúng vậy, muốn hiểu được ai thì phải biết và có kinh nghiệm về người đó. Có thế, ta mới dễ nhận ra và đi theo ý của người mà mình yêu mến.
Trong thế giới đang sôi động về mọi mặt, nhưng lời mời gọi “hãy theo Thầy” vẫn được vang vọng nơi mỗi chúng ta ngay trong những cuồng nhiệt của cuộc sống. Lời bài hát, mà chúng ta vẫn thường nghe trong mỗi dịp lễ Chúa Chiên Lành hay trong các dịp lễ về Tận hiến của tác giả Nguyễn Duy Vi: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi, đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ tươi rợn đồng xanh, con no thoả không bao giờ khát nữa, cánh tay Người đưa, gậy người dẫn yên lòng”, gợi lại cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như giúp chúng ta thêm xác tín vào Vị Mục Tử Nhân Lành; đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhạy bén, can đảm để phác hoạ chân dung Vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Giêsu, ngay trong chính cuộc đời chúng ta.
Để kết thúc bài suy niệm này, tưởng cũng nên mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn gửi các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô. Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên những con đường có tính đòi hỏi, can đảm sống đức ái và quảng đại dấn thân. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban, các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu, và các con sẽ học để “sẵn sàng đưa ra câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (1 Pr 3,15).
73. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu
Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay…
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.
2. Điểm mới của giới luật yêu thương
Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.
Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.
Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.
Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.
Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?
Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.
Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sống và thi hành giới luật yêu thương
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.
Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.
Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!
Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.
Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.
74. Chú giải của Noel Quesson
Tôi là…
Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết “bốn chữ cái không phát âm được là “Tên mầu nhiệm” mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.
YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai”, “Đức Chúa”.
Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên “Tôi là…”, kèm theo một phẩm tính:
– “Tôi là Bánh hằng sống” (Ga 6,35-42,48-51).
– “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8.12-9,5).
– “Tôi là Sự sống lại và là sự Sống” (Ga 11,25).
-“Tôi là Cây nho thật” (Ga 15,l-5).
-“Tôi là Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7-9).
-“Tôi là Mục tử nhân lành” (Ga 10,11-14).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga l,14).
Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).
Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: “Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: “Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavit, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).
Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm” (Ed 34,1-31).
Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: “Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? ‘Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình, là Thiên Chúa” (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.
Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh “Mục tử” biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: “Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú hơn.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.
Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.
“Nghe”: đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. “Hỡi Israel, hãy nghe đây?” (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian. “Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5).
“Theo”: đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với… Đức Giêsu mời gọi: “Hãy theo tôi” (Ga l,42).
“Biết”: trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và “những kẻ nghe tiếng Người và theo Người”. Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.
Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con đang ở trong “bàn tay Chúa”. Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển. Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.
Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Như thế, chúng ta được cả “hai bàn tay” giữ gìn.
Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết bao!
Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng Chúa. ‘Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh sắc màu mè diễn tả những “mục tử hiền lành” và các chú cừu con lông xoăn”. Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).
Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu sống anh em tôi không?
Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?
Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối với Thiên Chúa yêu thương!
Tôi và Chúa Cha là một.
Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên Chúa.
Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. “Tôi và Chúa Cha là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải “lắng nghe” trong đức tin: “Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một… Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một”
Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban sự sống đời đời”.
Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: “Tôi là…”.
Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa”, bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.
75. An toàn trong tay Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong phân đoạn thứ ba (từ ch. 5) của phần Phần i của TM Ga (“Sách các Dấu lạ” [ch. 2–15]), tác giả tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu (các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Người) trong khung cảnh các đại lễ của Do Thái giáo: ngày sa-bát, lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Với chương 10, chúng ta đến đại lễ cuối cùng là lễ Cung Hiến. Trong ch. 10 này, có hai câu hỏi căn bản được nêu lên: Đức Giêsu có phải là Đấng Mêsia chăng (c. 24)? Người có tự cho mình là Thiên Chúa không (c. 33)? Mỗi câu hỏi nhận được một câu trả lời dài gần như nhau (cc. 25-30; cc. 34-38) và đều kết thúc bằng đề tài khẳng định Đức Giêsu với Thiên Chúa (Cha của Người) là một (c. 30; c. 38).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay thuộc về câu trả lời thứ nhất.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đoàn chiên và Đức Giêsu (10,27-28);
2) Đoàn chiên và Chúa Cha (10,29);
3) Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30).
3.- Vài điểm chú giải
– chiên của tôi (27): Đức Giêsu có thể nói là các chiên thuộc về Người bởi vì Chúa Cha đã ban các con người cho Người (x. Ga 6,37.44.65; 17,6-7).
– Tôi và Chúa Cha là một (30): Bản văn này đã gây ra nhiều tranh cãi. Đức Giêsu không nói: Tôi và Chúa Cha là “một người” (heis, ở nam tính) duy nhất, nhưng là “một điều/sự” (hen, ở trung tính) duy nhất. Người muốn nói rằng Người và Chúa Cha cùng một bản tính; chính vì thế tay Người (c. 28) cũng mạnh mẽ như tay Chúa Cha (c. 29). Các nhà thần học không thuộc phái Ariô[1] đã coi c. 30 này là công thức Kinh Thánh nói về bản tính như nhau và ngôi vị khác nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đoàn chiên và Đức Giêsu (27-28)
Điểm nhắc đến đoàn chiên ở cc. 26-27 gợi lại cc. 1-21 và như thế đóng khung hai phần của ch. 10. Bằng cách quy chiếu về dụ ngôn Người mục tử tốt lành (10,1-18), Đức Giêsu mô tả tương quan giữa Người và những kẻ thuộc về Người. Nhưng cũng như ở cc. 7-10 và 11-16, cc. 27-28 không lưu ý nhiều đến đoàn chiên mà lưu ý đến người mục tử. Người Do Thái không nghe tiếng Người mục tử và không đi theo bởi vì họ không phải là chiên của đoàn. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng nếu họ không đi theo Đức Giêsu, thì không phải là bởi vì Người không phải là mục tử, nhưng bởi vì họ không phải là chiên. Muốn nghe được tiếng Đức Giêsu, người ta phải thuộc về Thiên Chúa (x. 8,47), phải “đứng về phía sự thật” (18,37).
Câu 28 gợi đến ý tưởng của c. 12 là có những con sói đến để tàn sát đoàn chiên. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Vị Mục tử kiểu mẫu sẽ bảo vệ đoàn chiên mà Chúa Cha đã ban cho Người.
* Đoàn chiên và Chúa Cha (29)
Tiếp đó, Đức Giêsu nhắc lại quyền tối tượng của Chúa Cha trên loài người. Câu 29 này gợi ý đến các tư tưởng của Cựu Ước nói rằng các linh hồn ở trong tay Thiên Chúa (Kn 3,1) và không ai có thể giựt họ khỏi tay Thiên Chúa (Is 43,13). Câu 28 và 29 nói về Đức Giêsu và về Chúa Cha theo cùng một cách: không một ai có thể cướp được các chiên khỏi tay hai Đấng. Điều này đưa chúng ta tới chỗ hiểu được c. 30.
* Đức Giêsu và Chúa Cha là một (30)
Sự duy nhất giữa Đức Giêsu và Chúa Cha là một sự duy nhất về quyền lực và công việc. Chúng ta có ở đây như một tổng hợp của tác giả Gioan về quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con: Con phát xuất từ Cha (8,42); tuy nhiên, Cha là Đấng sai phái Con, luôn ở với Con (8,29). Cha yêu thương Con (3,35); Con biết Cha thật thâm sâu (8,55; 10,15). Trong sứ mạng trên trần gian, Con chỉ có thể làm những gì đã thấy Cha làm (5,19), chỉ có thể xét xử và phán quyết như đã nghe từ Cha (5,30). Con được Cha dạy dỗ (8,28) và đã nhận được từ Cha mọi quyền xét xử (5,22) và có sự sống và ban sự sống (cc. 21.26; 6,57). Con làm theo ý của Cha (4,34; 6,38) và đã nhận được một lệnh truyền từ Cha liên hệ đến cái chết và sự sống lại của Người (10,18).
Nhưng chúng ta lưu ý là các quan hệ này giữa Chúa Cha và Chúa Con được mô tả theo hướng các tương giao của Chúa Con với loài người. Bởi vì như Chúa Cha và Chúa Con là một, hai Đấng nối kết loài người với nhau thành một (x. 17,11). Chính sự duy nhất này, đã được thông ban cho các tín hữu, khiến không một ai có thể cướp các tín hữu khỏi Chúa Cha hay Chúa Con.
+ Kết luận
Đức Giêsu quả là Đấng Mêsia, nhưng không phải là một Mêsia trần thế, đầy vẻ huy hoàng và quyền lực, nhưng Người là Vị Mục tử đến ban một sự hiệp thông riêng tư bền vững với Người. Nhưng sự hiệp thông của Người với các môn đệ phát xuất từ Chúa Cha và ở dưới sự che chở của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã ký thác các môn đệ cho Đức Giêsu; họ được an toàn trong tay Chúa Cha. Không một ai mạnh mẽ hơn Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, được nâng đỡ bởi tình yêu của Chúa Cha. Sự hợp nhất của Người với các môn đệ Người được bảo vệ bởi bàn tay mạnh mẽ của chính Người và bàn tay mạnh mẽ của Chúa Cha. Đức Giêsu và Chúa Cha là một trong các ý hướng và trong hành động.
5.- Gợi ý suy niệm
Đức Giêsu là Mục tử tốt lành. Nhưng chính do điểm này, chúng ta hiểu là Người sẽ không làm gì cho các chiên theo cách ép buộc hoặc ngược ý muốn của họ. Đức Giêsu luôn trợ giúp hữu hiệu, nhưng người ta chỉ nhận được sự trợ giúp đó nếu mở lòng ra với Người. Người cũng có thể đi tìm kẻ khép lại với Người, để đưa kẻ ấy về với Người; đó là cách Người cư xử với các kẻ thù. Nhưng để có một sự hợp nhất đích thực, hai bên phải hướng về nhau, nhìn nhận nhau và trân trọng nhau. Chúng ta đi vào hiệp thông với Vị mục tử tốt lành nếu chúng ta nghe tiếng Người và đi theo Người, nếu chúng ta tin tưởng vào sự hướng dẫn của Người và tin rằng Người chỉ cho chúng ta con đường ngay thẳng và ban cho chúng ta sự sống viên mãn.
Đức Giêsu khẳng định rằng không ai có thể hứa cho kẻ khác điều Người hứa, dù có thương yêu kẻ ấy đến đâu: sự sống đời đời, sự bảo vệ khỏi mọi sự dữ, sự hiệp thông bền vững muôn đời. Chúng ta chỉ có thể bảo vệ kẻ khác nếu người này còn sống; đối với Đức Giêsu thì ngược lại, Người không bị giới hạn bởi cái chết. Mục tiêu và đỉnh cao của cuộc đời Đức Giêsu, Mục tử tốt lành, là ban cho chúng ta sự sống đời đời. Nếu Người che chở chúng ta, chúng ta không thể nào bị diệt vong; sự che chở của Người bảo đảm hơn mọi quyền lực trần gian. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).
Hôm nay là ngày cầu xin ơn thiên triệu, xin Thiên Chúa ban cho có những mục tử mới. Chắc chắn chúng ta nài xin Thiên Chúa ban cho có thêm các mục tử tốt lành “như lòng Chúa mong ước” (Gr 3,15), theo gương Đức Giêsu, Vị Mục tử tốt lành. Nhưng cũng cần phải cầu nguyện cho các mục tử đang làm việc trên khắp cánh đồng của Thiên Chúa cũng biết khép mình vào kiểu sống của Đức Giêsu; đồng thời cũng xin Người ban cho có các con chiên biết nghe và đi theo tiếng của Vị Mục tử tốt lành, mà các mục tử đang truyền đạt. Mục tử cần nhớ rằng đoàn chiên được Chúa Cha ký thác cho mình để đưa họ đến sự sống đời đời; con chiên cần nhớ rằng mục tử được gửi đến để làm việc theo chương trình của Chúa Cha.
Mục tử cũng như con chiên đều cần suy ngẫm về quan hệ giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Khi đó mục tử và con chiên sẽ hiểu rằng có một thứ độc lập trong nếp sống và trong lối suy tư đưa tới diệt vong, và cũng có một mối quan hệ lệ thuộc, một sự hợp nhất, đưa tới sự phong phú và sự sống dồi dào.
——————————————–
[1] Ariô (256-336) là linh mục ở Alexandria. Ông cho rằng Đức Giêsu là thọ tạo cao cả nhất, nhưng không phải là Thiên Chúa. Ông đã bị kết án tại Công đồng Nixê năm 325.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam