Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1379438

ĐỨC GIÊSU VỊ THẦY THUỐC CAO TAY ĐẦY NHÂN ÁI

Đức Giêsu Kitô, vị thầy thuốc cao tay, đầy nhân ái

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai. Ngài dạy dỗ chúng ta những Mối Phúc tuyệt vời mà chúng ta cần phải sống mỗi ngày để đạt được hạnh phúc thật là Nước Trời (Phụng vụ Năm A). Ngài chữa lành những người bị quỉ ám (Phụng vụ Năm B), nhưng Lời Ngài là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều …thán phục Người ; các thần ô uế phải vâng lệnh, nhưng ngược lại, những người Do thái đầy căm phẫn, chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm ” (Lc 4, 29) (Phụng vụ Năm C).

* Phụng vụ Lời Chúa Năm A

– Soph 2, 3 ; 3, 12-13: Thiên Chúa muốn một dân tộc khiêm tốn, nhỏ bé và nghèo hèn

– Tv 146, 7: Phúc thay ai có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của họ

– 1 Cr 1, 26-31: Những điều Chúa chọn

– Mt 5, 1-12a: Bài giảng trên núi: Tám Mối Phúc

* Phụng vụ Lời Chúa Năm B

– Đnl 18, 15-20: Môisen loan báo vị tiên tri trong thời sắp tới

– Tv 95, 1: Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng nữa

– 1 Cr 7, 32-35: Sự trinh trong đối với Thiên Chúa

– Mc 1, 21-28: Đức Giêsu rao giảng và chữa lành người bị quỉ ám

* Phụng vụ Lời Chúa Năm C

– Gr 1, 4-5 ;17-19: “Ta sẽ làm cho ngươi trở thành tiên tri của nhiều dân tộc”

– Tv 71, 5: Tới muôn đời, tôi sẽ loan báo sự chiến thắng và ơn cứu độ của Người.

– 1 Cr 12, 31 à 13, 13: Bài ca Đức Aí

– Lc 4, 21-30: Sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu

Về điều này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau:

Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

Một thầy thuốc cao tay là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã đến giữa chúng ta. Ngài đã rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Đức Giêsu đã đến, và Ngài thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Ngài liền hứa trao ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: “Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm”. ( 1Cr 2, 9).

Thiên Chúa, Thầy thuốc đến để chữa bệnh gì cho nhân loại? Ngài đã dùng phương thuốc nào? Ngài đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Ngài mời gọi ta. Thật vậy, Ngài biết rằng phương thuốc để chữa lành bệnh tật của ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Ngài đến cứu giúp ta, vì Ngài biết điều chúng ta cần.

Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Ngài vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Ngài được? Và, nếu không bắt chước được, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Ngài đến trong sự khiêm nhường, vì Ngài biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Ngài, tay cầm chén, và nói: “Lạy Thiên Chúa của con, Ngài là Đấng nào? Ngài được sinh ra, Ngài đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.

Thường thì kẻ mặc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn sẽ cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Ngài không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Ngài đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Ngài đã chết và đã sống lại.

Như thế, Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Ngài đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.

 

14. Chúa Giêsu không được chấp nhận.

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Đức Giêsu một mình trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dứoi sự chăm sóc của mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân tại Ca-phác-na-um. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và tới dự một buổi thờ phựơng nhằm ngày sabat. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.

Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ lòng không tin bằng một câu hỏi: “Hẳn không phải là con ông Giuse sao?” Ý họ muốn nói: “Đây không phải là người lân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Mêsia được!”

Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ những phép là mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác. Nếu anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô.” Chúa cũng trích dẫn một câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của họ. “Quen quá hóa lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tài hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên chức vụ của Chúa Giêsu, có người chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên rồ, tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi trên thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng hối cải của ân điển Ngài.

Thái độ của khán giả biến thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu ước, cả hai câu đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài hơn hết, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại bang. Ngài tự ví sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ơn phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ơn phúc cho Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy, điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ xem khinh các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hỏa ngục”. Thế mà giờ đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi, họ nổi xung lên đuổi Ngài ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.

Ngay từ khi mới sinh ra, Đức Giêsu nhận được một định mệnh “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.

Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận!” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm mở mày mở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.

Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lặp lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Na-a-man nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ thông của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thỏa mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.

Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được đích thân Đức Mẹ dạy dỗ, một lần có người hỏi cô về số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi giáo. Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy.” Sau đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi giáo và Chính thống giáo cũng một thể như người Công giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công giáo là đủ để được cứu rỗi… Những người không Công giáo không phải là những thọ tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung là cuộc sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.

 

15. Khước từ vì ghen tương – R. Gutzwiller.

Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.

Nếu truy tầm lý do tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần nào cách suy tư, lời nói và con người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con người của Ngài không am hợp với những gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ. Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi lẽ Ngài không loan báo cho họ một cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng không loan báo một nước Israel hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và quyền thế. Thế nhưng Ngài lại mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân chúng và làm thay đổi bầu không khí.

Hơn nữa, Ngài đã thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết là ở là ở Caphanaum chứ không làm ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm đến lòng ái quốc quá khích của họ khiến họ nói: ‘Thày lang ơi! Hãy chữa lấy mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê hương ông đây nữa đi!’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không có tiên tri nào được sùng mộ ở quê hương mình’, Ngài không chút nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài không theo họ hướng dẫn, chính họ mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.

Ngài đi xa hơn nữa và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn biết chuẩn bị mới nhận được chứ không phải là những liên hệ máu mủ.

Xưa tiên tri Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp một người ngoại bang: vì bà goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria cũng thế, ông đến với tiên tri Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng quê với tiên tri lại luôn cản mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ để cho thấy rằng cứ là người Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn cứu độ bằng một con tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.

Dân cư Nagiarét đã hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không cùng hy vọng như họ và họ cần thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế nên mới có sự thù địch giữa Ngài với họ.

Nhiệt tình ban đầu dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại. Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường đến cuối làng để rồi xô Ngài từ trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ mà họ chẳng thể hại được Ngài. Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.

Đối với chúng ta, việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là một sơ thảo về những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ, từ nay Ngài đi về phía các dân ngoại.

Sự thay đổi bất ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra hận thù, tán dương thành bài xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo khơi dậy nơi những ai không thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng trả lời cho những vấn nạn thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong thầm kín nhất của tâm hồn. Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả định kiến. Họ xét đoán theo mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã được hấp thụ qua nền giáo dục. Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách thế của họ, kẻ theo chiều hướng coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng chính trị hay xã hội. Họ không có ý nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời Chúa.

Nếu Lời Chúa không am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ thì họ liền kết án và khu trừ. Họ không muốn để mình được điều gì khác cân đo, nhưng muốn mình là khuôn là thước cho chính mình; họ không muốn cái gì khác thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét chính bản thân mình.

Bối cảnh đã xảy ra ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả, Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa, chính khi con người không muốn tiếp nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình thương đi chỗ khác; khi họ có ý giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài vẫn tiến bước đi.

 

home Mục lục Lưu trữ