Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1379442
ĐỨC KITÔ BỊ TỪ CHỐI
Đức Kitô bị chối từ
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.
Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.
Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.
Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.
Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.
Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.
Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.
Câu hỏi ngày hôm nay đó là chúng ta hãy tra vấn lương tâm, hãy tìm hiểu cách sống của bàn thân, để xem chúng ta đã thực sự đón nhận hay là đã từ chối Đức Kitô.
2. Tiên tri ở quê hương mình
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.
3. Thân phận người sứ giả.
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của người tông đồ, vì Chúa Giêsu cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay, Chúa Giêsu trở về Nadarét để rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những người đồng hương chống đối, rồi trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan truyền Phúc Âm, đã chữa lành những tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người, thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng, bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên Chúa thì bị mang tiếng là xách động là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác định cho các tông đồ: Các con sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu ra toà. Và như chúng ta thấy: Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn liền với thập giá và khổ đau, vì nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá tới phục sinh và là điểm tựa cho người sứ giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá, sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ. Số phận của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy chí thánh, bởi vì chính Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Người môn đệ không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người khác. Đúng thế, thập giá họ vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung sướng và hãnh diện vì được chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi chẳng bao giờ tôi dám vênh vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng đinh thế gian cho tôi và tôi cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ nhìn vào thập giá Đức Kitô và tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Trước những hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn sàng chấp nhận chịu đóng đinh với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng để phục vụ ý Chúa hay không? Đức Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
4. Không làm được phép lạ.
Suy Niệm
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Tiếc thay người làng Nagiaréth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài, và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
"Ông ta không phải là bác thợ sao?"
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn, sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nagiaréth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào đó về Đức Kitô, khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu nhiệm tha nhân, để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng làm được mọi sự. Nhưng Đức Giêsu tại Nagiaréth lại cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta. Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về người đó. Bạn có khi nào giống như người Nagiaréth không?
Có khi nào bạn thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nagiaréth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
5. Quê nhà bạc bẽo - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Người khác thường. Gương mặt Người luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Người càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Người trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa, của lòng nhân ái Chúa Cha trên trời, của tình yêu. Ngài đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế!
Ở Việt Nam, hồi năm 1945-1950, cũng có những ông canh điền, đầy tớ, mõ làng đi vắng hai ba tuần, trở về diễn thuyết rất hùng hồn. Bởi đâu các ông đã ăn nói thao thao bất tuyệt như vậy? Sau này, người ta mới biết các ông được đi huấn luyện học thuộc lòng mấy bài để về ra mắt dân làng, hô hào đấu tranh chống thực dân Pháp, chống bù nhìn Bảo Đại trói gà không nổi.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài mất trí, kinh sư chụp mũ Ngài nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên.
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là con một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Còn Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều xâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất mầu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt. Lòng nghĩ “cái nết đánh chết cái đẹp”, mắt vẫn liếc lia lịa người đẹp hơn chiêm ngắm tượng Chúa trên thập giá.
Khi Đức Hồng Y Roncalli (Rông ca li) được bầu làm Giáo hoàng Gioan 23, một Giám mục khóc cho Giáo hội sắp đến ngày tàn. Giáo Hội không còn ai lên lãnh đạo, phải bầu một ông già 77 tuổi về hưu lên đỡ vậy. Nhưng chỉ vài ngày sau, báo chí đã đưa những tin giật gân về ông già hồn nhiên, vui vẻ, đang lo canh tân ngôi giáo triều cổ kính, bệ vệ và chẳng bao lâu Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Ngài tuyên bố họp Công Đồng Vatican 2, thực hiện cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội và cả thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời.
6. Thiên Chúa luôn làm việc
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
I. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
II. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
III. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
2. Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
7. Bụt nhà không thiêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
- Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Tu đâu cho bằng tu nhà –
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.
Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa..., vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam