Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 66
Tổng truy cập: 1379937
ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất” thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho “công việc tiến vào miền đất hứa” ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”, chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm “dấu lạ” cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn “mù tối” trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải “mất mạng sống mình” (8,35), phải trở nên “người cuối chót” (9,35), phải tự “móc mắt, chặt tay, chặt chân” để khỏi phạm tội (9,47), phải “trung thành trong hôn phối” đến độ anh hùng (10,9), phải “uống chén đắng và nhận phép rửa”, phải trở nên “đầy tớ của mọi người” (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để “theo Chúa”.
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là “hình trạng” của sự “khó nghèo”, của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người “hành khất mù ngồi dưới đất” này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua”, Người “đang đến”. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!”
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. “Xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”. Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là “Ièsou, eleison, Ièsou, eleison”
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể “thở” với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít” ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai” không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông “Vua” thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người “sẽ lập lại vương quyền tại Israel”. Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên “nắm quyền”. Người là “Vua”, nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!”
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các “môn đệ” bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về “vai trò của Giáo hội”: thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. “Đứng dậy” (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là “thức dậy” hay “sống lại” (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng” để tự mình “tuyên xưng Đức tin”.
Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là “việc khai sáng”. Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: “Lúc bấy giờ mắt họ mở ra”. Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ “khuôn mặt đầu tiên” mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN CỦA ANH MÙ THÀNH GIÊRICÔ (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.
Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.
Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
Vị thượng tế Cựu Ước:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa. Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-Năm B
NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRIKHÔ- Chúa giải mục vụ của Jacques Herviuex
Trình thuật vắn gọn gồm bảy câu này giàu hương vị và súc tích đặc biệt. Maccô đã phác họa nơi đây những nét sinh động to tát bộc lộ chiều sâu tư tưởng của ông.
Quang cảnh xảy ra đã được xác định rõ nơi chốn, khi vừa qua khỏi (nơi Chúa Giêsu đang đi 10,1) thì Giêricô sẽ là địa danh dẫn người ta vào Israel (c.46a). Đối với Chúa Giêsu đây là bước quy định nhất trong tiến trình hướng về Giêrusalem (11,1). Hãy ghi nhận rõ: đây là lần đầu tiên tác giả Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu đồng hành về Giêrusalem với “một đám đông” chứ không phải chỉ riêng các môn đệ Ngài. Và này đây trên bước hành trình của mình, đám đông sẽ có được một cuộc gặp gỡ “đổi đời”. Ở đây chúng ta gặp một nhân vật “đặc biệt” đang ngồi ở lề đường: anh ta là một trong vô số người mù Palestin thời đó phải xin ăn mà sống (c. 46c). Sự cố liên quan tới anh ta đã gây xúc động mạnh cho Maccô đến nỗi ông là người duy nhất trong các giả Phúc Âm đã ghi lại tên anh mù bằng tiếng Aram được Maccô lẹ làng dịch ra cho độc giả Hy Lạp hiểu, tên ấy là có nghĩa là con của Timê. Anh ta hoàn toàn bị gạt ra rìa cuộc sống tức là đang khi thiên hạ đi thì anh ta ngồi mà lại ngồi ‘bên vệ đường”!
Tuy nhiên, dù mù lòa cô đơn ngồi một chỗ, anh ta vẫn là một người hiếu động, với sự bộc phát đầy kinh ngạc, anh ta kêu lên Chúa Giêsu khi Ngài đi qua đó (c. 47). Tiếng kêu của anh mù biểu lộ nỗi khổ to lớn nhưng đặc biệt cũng biểu lộ niềmtin cậy khôn lường. Quả là nghịch lý khi anh mù này lại “thấy” được chính xác Đức Giêsu Nadaret là ai. Anh ta gọi Ngài là “Con vua Đavit”. Theo truyền thống Kinh Thánh đây chính là tên gọi Đấng Mêsia. Đấng được dân riêng Chúa từ lâu mong đợi (x. Lời hứa Chúa ngỏ với Đavit: 2Sm 7,1-17). Như thế Bartimê đã thực hiện một hành vi đức tin phi thường. Trái lại, đám đông đang nối nhau theo Chúa Giêsu thì muốn khước từ anh chàng nghèo khổ, bị khai trừ này. Đây là đặc tính của con người đương thời: họ chỉ muốn anh chàng quấy rầy này câm miệng đi. Đối với họ, một kẻ ăn xin cản bước Chúa Giêsu thì thật là không thích đáng tí nào. Không thấy nói đến thái độ của các môn đệ; chẳng hiểu các ông có tham gia tẩy chay anh mù không? Có thể lắm chứ. Các ông chẳng từng quở mắng đám trẻ con (một loài người bị khai trừ) muốn đến gần Chúa Giêsu đó sao? (10,13-16). Mặc kệ đám người chung quanh Chúa Giêsu tỏ ra hết sức thù nghịch, Bartimê vẫn không chịu thua cuộc. Người ta càng tìm cách chận không cho anh là thì “anh càng la to hơn”: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (c. 48b). Lời van xin dai dẳng này đã đạt được mục đích: Chúa Giêsu dừng lại và nói: “Hãy gọi anh ta tới” (c. 49a). Một lần nữa Đấng Mêsia biểu lộ cho thấy Ngài muốn “dan díu” với những kẻ mà các bạn hữu Ngài khăng khăng muốn khai trừ (x.10,14). Và Ngài đã yêu cầu người ta gọi kẻ bị khai trừ đến gặp Ngài. Lúc này đây, đám đông (và không chừng cả các môn đệ (?)) liền “đổi giọng” và mời anh mù đến gần Chúa Giêsu (c. 49b). Những từ này còn hàm chứa lời mời gọi anh mù nọ rời bỏ tình trạng “chết chóc” của mình bởi vì “Hãy đứng lên” cũng hàm nghĩa “Hãy sống dậy”, theo ngôn ngữ Hy Lạp được dùng trong Phúc Âm, tiếng kêu gọi này mang lại hiệu quả ngay. Lập tức “anh mù liền vất áo choàng lại, nhảy chồm lên mà đến gần Chúa Giêsu” (c. 50). Các chi tiết này thật kỳ diệu. Giống như thể Bartimê đã hết mù rồi vậy! Vất áo choàng tức là vất bỏ đi “tình trạng” bị khai trừ của mình. Thực thế, trong Thánh Kinh, y phục tượng trưng cho nhân cách người mang nó. Áo khoác là của cải duy nhất của “người nghèo” (x. Xh 22,25-26). Khi vất áo đi, Bartimê đã thực hiện điều mà Chúa Giêsu không thể nhận được từ người đàn ông giàu có nọ, tức là bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Và bằng cách nào đây? “Anh ta nhảy chồm lên”. Nhảy lên trong lúc mắt vẫn còn mù thì đúng là cái nhảy của đức tin. Anh ta chạy về phía Chúa Giêsu: điều này nói lên được rất nhiều về đức tin của anh. Với sự lao tới không gì cầm lại được, kẻ từng bị sống ngoài rìa xã hội vượt qua cái hố phân cách anh ta với tất cả mọi người.
Gặp được anh mù rồi, Chúa Giêsu liền nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (c. 51a). Câu hỏi xem ra thừa bởi vì nhu cầu của anh ta đã quá rõ ràng. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn kính trọng tự do của mọi kẻ đến gặp Ngài. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (c. 51b). những tiếng anh ta dùng là trang trọng. Khi ngỏ lời với Thầy mình, các môn đệ người Do Thái thường chỉ gọi đơn sơ “Thưa Thầy” (Rabbi). Còn ở đây tiếng Rabbouni có nghĩa là “Thầy của tôi” được anh mù ngỏ với Chúa Giêsu với đầy sự kính trọng và thân ái hơn. Mặc dù chỉ yêu cầu “xin cho tôi được thấy” nhưng xem ra có lẽ anh ta muốn diễn tả một nhu cầu sâu xa hơn. Trình thuật lại gợi cho ta thấy điều này. Lời nói của Chúa Giêsu chứa đựng một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với cử tọa chung quanh (c. 52a). Câu nói “anh hãy đi” hàm ý một sự sai phái. Chúa Giêsu giải thoát anh ta khỏi những gì làm tê liệt anh ta. Hơn nửa, tất cả những gì lay động Baritmê từ những tiếng van nài lải nhải cho đến việc anh phóng chạy tới Ngài đang khi vẫn còn mù, đều được Chúa Giêsu đánh giá là thuộc về “đức tin”, và thành ngữ “đã cứu chữa anh” có nghĩa là ân sủng Chúa Giêsu ban cho người tín hữu vượt quá sự chữa lành về mặt thể lý, vì đó là ơn cứu độ toàn bộ con người. Những lời tương tự như khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,34) đã mặc khải rõ ý nghĩa sâu xa của các phép lạ Ngài thực hiện. Đoạn cuối của trình thuật này rất lạ thường. Theo tính cách bất ngờ thường thấy Maccô sử dụng. (trạng từ “tức khắc” được lặp đi lặp lại thường xuyên: 1,12.20; 2,12; 5,30v.v…). Ở đây anh mù sau khi được khỏi liền bước đi theo Chúa Giêsu. Câu nói anh “theo Ngài lên đường” là công thức rất thường dùng để diễn tả thái độ “người môn đệ” (1,18; 2,14).
Chúng ta thấy ở đây nghệ thuật kể chuyện của Maccô đã đạt đến độ hoàn hảo (c. 52b). Quả là tương phản biết bao giữa tình trạng lúc đầu của Baritmê (ngồi bên lề đường, mù lòa, xin ăn) và tình trạng sau đó của anh ta (đứng, đi trên đường, sáng mắt, loan báo Tin Mừng…) không nghi ngờ gì nữa, khi đặt trình thuật trên vào thời điểm Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, lôi kéo đám môn đệ và quần chúng đạt đến “nguồn ánh sáng” lớn lao hơn về thân thế và sứ mệnh của Ngài, Maccô đã muốn minh họa cho những gì làm nên “người môn đệ đích thực tức là phải để cho Chúa Giêsu dẫn đến sự “Thiên Khải của đức tin”. Trước đó việc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26) đã giúp các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Ngài là Đấng Mêsia (8,27-30). Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi các môn đệ và tất cả những kẻ muốn theo Ngài hãy mở con mắt của lòng mình ra để đón nhận, trong đức tin, cái nhìn về một Đấng Mêsia chịu đau khổ và vinh thắng.
Hẳn Maccô chỉ có thể định vị trình thuật này cách hay nhất vào thời điểm Chúa Giêsu sắp đi vào thành Giêrusalem. Liệu người ta có thể nhận biết Chúa thân thế và hành động của Ngài không? Quả thật khi đến trần gian cứu độ loài người, Chúa Giêsu nhắm đến hai mục đích: vừa phục hồi họ vào trong xã hội đương thời của họ, vừa tháp nhập họ vào trong cộng đồng tình yêu do Ngài thiết lập nên.
CÁC PHÉP LẠ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Trong Phúc Âm Maccô, các phép lạ của Chúa Giêsu lên tới con số mười bảy; điều này cho thấy chúng đóng góp một vai trò quan trọng bởi vì tác phẩm này tương đối ngắn (chỉ mười sáu chương) đồng thời các giáo huấn của Chúa Giêsu ở đây lại hiếm khi được giải thích (nhất là ở giai đoạn đầu, xem 1,14-8.30).
Người ta có thể xếp “các hành vi quyền phép này” (theo kiểu nói của Maccô) thành những “loại” khác nhau phù hợp với não trạng hiện đại của chúng ta hơn là tư tưởng phương Đông và tư tưởng thời xưa.
– Có những hành vi được xem là các cuộc chữa bệnh thuần túy: nhạc mẫu Phêrô (1,29-31); một người phong hủi (1,40-45); người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,25-34); một người câm điếc (7,31-37); hai người mù (ở Betsaiđa; 8,22-26; ở Giêricô: 10,46-52); hai người bại liệt (ở Caphanaum: 2,1-12; trong một hội đồng: 3,1-6).
– Một “cuộc hồi sinh”: con gái ông Giairô (5,21-24 và 35-43).
– Những “hành vi quyền phép” trên thiên nhiên: dẹp yên bão tố (4,35-41); đi trên sóng nước (6,45-51); hai lần hóa bánh (6,30-44; 8,1-10).
Việc tường thuật dồi dào các sự kiện “lạ lùng” thường khiến các độc giả thời nay lạc lối. Đối với đa số người thời nay, các phép lạ trở thành một trở ngại cho đức tin hơn là lời mời gọi người ta đến với đức tin. Tuy nhiên chắc chắn hồi đó Chúa Giêsu là một nhà trị bệnh đồng thời cũng là một nhà trừ quỷ. Điều này chẳng có gì khác thường trong thế giới Do Thái và dân ngoại thời ấy. Văn chương vùng Đông phương cổ xưa và trong thế giới Hy Lạp thời Chúa Giêsu còn lưu lại trình thuật phép lạ do những người có đặc sủng hoặc các nhà ma thuật thực hiện.
Tuy nhiên các phép lạ của Chúa Giêsu khác hẳn với các phép lạ của các nhà trị bệnh đương thời. Các phép lạ của Chúa Giêsu liên kết chặt chẽ với Tin Mừng Ngài rao giảng. Chúng thực sự là “những dấu chỉ” cho thấy Đấng Mêsia đang hiện diện (x. Mt 11,2-6), Nước Thiên Chúa đang đến. Sứ điệp của Chúa Giêsu đã mang lại tất cả ý nghĩa cho việc Ngài trị bệnh và trừ quỷ. Ngoài việc làm tiêu tan đi cơn đau thể lý và tâm lý, các phép lạ còn là dấu chỉ sự “giải thoát” về mặt tôn giáo và xã hội nữa. Trước hết Chúa Giêsu đến phục hồi cho bệnh nhân sự thông hiệp với Thiên Chúa. Như thế Ngài tái tháp nhập bệnh nhân vào cộng đồng đức tin cùng với những người khỏe mạnh khác. Đồng thời Ngài phục hồi cho “những kẻ bị khai trừ” này bằng cách giúp họ tái nhập vào xã hội mà họ đang sống. Hai ví dụ sống động của việc “giải phóng kép” này được tìm thấy nơi các phép lạ “chữa người phong hủi” (1,40-45) và “người bị bất toại được tha thứ và chữa lành” (2,1-12).
Ngoài ra, phải đọc các phép lạ của Chúa Giêsu nơi Maccô, trong khuôn khổ liên tục của Phúc Âm này. Ở mỗi giai đoạn mặc khải về Đấng Mêsia, các phép lạ đều củng cố thêm cho sự khám phá thân thế và sứ mệnh đích thực của Ngài.
– Trong giai đoạn đầu (1,14-3,12) Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng Ngài đến khánh thành kỷ nguyên cứu độ, các phép lạ chữa lành nhạc mẫu Phêrô (1,29-31), chữa lành một người phong hủi (1,40-45), chữa lành một kẻ bại liệt (2,1-12), chữa lành người có cánh tay bị liệt (3,1-6) chứng nhận Ngài thực sự là một vị lương y của thể xác và tâm hồn.
– Trong giai đoạn thứ hai (3,13-6,6) Chúa Giêsu lôi cuốn các môn đệ vào công việc mang Phúc Âm “đi xa” đến vùng các dân ngoại. Maccô đã gom lại ở đây bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu để trấn an Giáo Hội non trẻ rằng Đấng Chúa Tể Phục Sinh của họ vẫn còn đang hiện diện ở khắp mọi nơi và Ngài luôn nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Các phép lạ sau đây đều mang ý nghĩa này: truyền bão tố yên lặng (4,35-41), chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa (5,1-20), hồi sinh con gái ông Giairô và chữa lành người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,21-43). Khi đọc những bằng chứng này, các Kitô hữu, mạnh dạn đem Tin Mừng đến giữa lòng dân ngoại.
– Trong giai đoạn thứ ba (6,7-8,26) Chúa Giêsu mặc khải Ngài là một Môsê mới. Ngài có khả năng quy tụ và nuôi dưỡng được mới của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng sự hiến dâng chính mình. Đây là ý nghĩa lần hóa bánh đầu tiên (6,30-44). Tuy nhiên Ngài không dừng lại ở đó: Ngài còn đến để mở rộng bàn tiệc Nước Chúa cho những kẻ xa lạ, những kẻ không thuộc dân Do Thái vẫn thường bị dân Do Thái khai trừ. Đây là ý nghĩa việc trừ quỷ cho đứa con gái người phụ nữ Syrô-Phênisi (7,24-30) và lần hóa bánh thứ hai (8,1-9). Sự kiện các môn đệ cảm thấy khó mà nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia mang tính cách hoàn vũ đã được minh họa qua hai phép lạ có tầm mức tượng trưng cao độ: phép lạ chữa người câm điếc (7,31-37) và chữa người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Những kẻ muốn theo Chúa Giêsu phải thoát ra khỏi sự điếc lác mù lòa cản trở không cho họ nhận ra thân thế sâu nhiệm và sứ mệnh của Ngài.
– Giai đoạn thứ tư của sứ mệnh Chúa Giêsu (8,27-10,52) là giai đoạn đào tạo gấp rút các môn đệ tham dự vào lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới. Các môn đệ không được sợ hãi viễn cảnh mới về cái chết của Thầy mình. Một cách cố ý, Maccô đã trình bày việc chữa lành đứa bé bị động kinh (9,14-29). Ở đây Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Chúa Tể nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Ngài chứng tỏ Ngài có khả năng “Phục Sinh” Người đã bị phó cho thần chết. Bạn hữu Chúa Giêsu phải mở mắt ra theo gương anh mù thành Giêricô (10,46-52). Họ có thể bước theo Chúa Giêsu trong đức tin sáng chói, cùng đồng hành với Đấng vướt qua cuộc khổ nạn, chiến thắng sự chết bằng cuộc phục sinh của Ngài.
– Giai đoạn thứ năm của Chúa Giêsu (11,1-13,37) hoàn toàn tập trung vào cuộc nhập thành Giêrusalem và việc Ngài chính thức giảng dạy trong đền thờ. Giai đoạn này không thấy Chúa Giêsu làm phép lạ. Phải đọc trình thuật “cây vả bị khô héo” (11,12-14 và 20-25) như là một cử chỉ tượng trưng. Dụ ngôn này (được lịch sử hóa) muốn chứng tỏ rằng luật lệ hay đền thờ Do Thái cũng không thể làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa (11,12). Chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mang theo nơi Ngài lương thực cứu độ.
– Giai đoạn thứ sáu và cũng là giai đoạn chót (14,1-16,8) là trình thuật liên tục về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Suốt thời gian các biến cố này, Chúa Giêsu không hề thực hiện hiện một dấu chỉ quyền phép thần linh nào cả. Mãi đến lúc cuối cùng, Ngài vẫn từ khước cơn cám dỗ xui khiến Ngài thực hiện “phép lạ” cứu Ngài thoát chết tức là xuống khỏi thập giá (15,29-32). Làm phép lạ này tức là phủ nhận chính nhân tính của Ngài.
Người ta thấy rõ: các phép lạ trong Phúc Âm Maccô không bao giờ là những “chứng cứ” về thiên tính của Chúa Giêsu mà chỉ những dấu chỉ giúp chúng ta tin. Chúng được tác giả Phúc Âm và cộng đồng của ông đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và Kim Thánh. Chúng chỉ là những lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu, Đấng cứu độ ta khỏi những sự dữ to lớn, đặc biệt là sự chết. Các dấu chỉ này luôn luôn hiện thực để khích lệ hoạt động thừa sai và bí tích của Giáo Hội (x. 16, 15-20). Người ta hiểu rằng các dấu chỉ ấy vẫn mãi mãi là một “câu hỏi” đối với những kẻ không tin…
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam