Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1379490

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA

Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.


 

55. Không có ngôn sứ nào được tôn vinh nơi quê hương

SUY NIỆM

Bản văn Tin Mừng hôm nay tường thuật về việc Đức Giêsu bị những người ở quê hương mình khinh thường, và Người không thể thi ân giáng phúc cho họ.

Sau khi chữa lành cho người phụ nữ bị bệnh băng huyết và cứu sống con gái của một ông trưởng hội đường Do thái ở Ca-pha-na-um, Đức Giêsu rời khỏi nơi đó để về quê hương của Người là Na-da-rét.

Đến ngày sa-bát Người vào hội đường để giảng dạy. Những người họ hàng thân thuộc, bạn bè và hàng xóm rất ngạc nhiên về những lời lẽ khôn ngoan và đầy thuyết phục của Đức Giêsu; họ cũng đã nghe truyền tụng về những phép lạ Người làm ở nơi khác, nhưng họ không tin Người là Ngôn sứ của Thiên Chúa, vì họ biết rõ thân thế của Người. Những người này nói với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”

Đức Giêsu trở về Na-da-rét, Người muốn loan báo cho những người thân yêu của mình về ơn Cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện, nhưng Người thất vọng vì sự cứng lòng và thói tật xấu xa của họ, họ đánh giá người khác theo cảm tính và dáng vẻ bề ngoài. Do đó, họ đã tỏ thái độ lạnh nhạt, khinh thường và không tiếp đón Người.

Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Thực thi sứ vụ yêu thương, Đức Giêsu giảng dạy chân lý cứu độ và Người muốn thi ân giáng phúc cho mọi người nhất là những người đồng hương thân yêu và bằng hữu; nhưng Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó.

Phép lạ gắn liền với lòng tin, Đức Giêsu có làm phép lạ cũng là vì thương yêu và để củng cố đức tin cho người có bệnh tật cũng như cho những người chứng kiến dấu lạ, nhưng ở quê hương của Người, Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Sự cứng lòng và thái độ khinh thường của người Na-da-rét làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng.

Qua trình thuật Tin Mừng hôm nay Lời Chúa muốn nói với tôi: Thái độ của người Na-da-rét ngày xưa, hôm nay vẫn còn đang tái diễn khi con người lãnh đạm trước ơn soi sáng thúc dục sống công chính và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong lương tâm, cũng như trước lời mời gọi hiệp nhất của Giáo hội. Bởi xu hướng hưởng thụ và quan niệm thực dụng người ta không còn chú ý đến tiếng lương tâm và xem thường những thực tại thiêng liêng, khước từ ân sủng Thiên Chúa ban cho qua Phụng vụ và các Bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh thể. Chính sự vô cảm về đàng thiêng liêng đã ngăn cản bàn tay yêu thương của Thiên Chúa khi Ngài thi ân giáng phúc. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã trách cứ những người đồng hương của Đức Giêsu về thái độ bất kính đối với Người; nhưng đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào? Năm 2010, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 ban hành Tông huấn Lời Chúa, ngài nhắc nhở mời gọi người tín hữu hãy yêu mến Kinh Thánh, siêng năng đọc và suy niệm theo phương pháp truyền thống của Hội Thánh là Lectio Divina để kín múc sự sống vĩnh cửu nơi Lời của Đức Giêsu. Thực tế, lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 đã được chúng ta đón nhận như thế nào? Mau mắn và kiên trì thực thi việc đọc KinhThánh vì đó là phương tiện gặp gỡ chính Người; hay quan niệm đây chỉ là quyển sách đạo đức hoặc phương pháp Lectio Divina có vẻ xa rời thực tế, vì thế lãnh đạm hoặc xem thường mà chẳng quan tâm đón nhận?. Đấy là câu trả lời về thái độ của con người chúng ta hôm nay đối với Đức Giêsu và lời rao giảng của Người.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay nhắc nhở tôi:

- Hãy quan tâm và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa thông ban cho qua các phương tiện như Kinh Thánh, Phụng vụ, các bí tích và những việc đạo đức bình dân khác với lòng yêu mến chân thành.

- Hãy có một tấm lòng quảng đại, thân thiện để sẵn sàng đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa; đó có thể là những người anh em nghèo túng, khốn cùng; có thể là những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi; có thể là những người đang nhắc nhở tôi điều tốt lành - dù họ là ai, họ như thế nào.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn để nhận ra Chúa trong cuộc đời và chân thành đón tiếp Người cũng như yêu mến thực thi các huấn lệnh, để nhờ đó con có được diễm phúc sống thân tình với Người và hưởng nếm hạnh phúc Người hứa ban.


 

56. Sức mạnh trong yếu đuối.

Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis) Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire

Bất chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả gì.

Lúc đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao đang mặc trên mình.

Gallwey mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua, ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.

Gallwey liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa nhưng phải bước đi.

Sau khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.

Bất chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.

Sau đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: "OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin sẵn sàng." Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa, và ông lại bắt đầu chạy tiếp.

Sau một vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.

Ngoài sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.

Sau cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.

Khi biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.

Kinh nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay.

Thiên Chúa nói với Phaolô, "Sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối." Và Thánh nhân đã chân nhận, "Vì thế, tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi... khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ." Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói gì, "khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ"?

Ngài có ý muốn nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài biết cậy trông vào Chúa để xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của mình, ngài biết mở mình ra và để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.

Nói một cách khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm nghiệm được con người yếu đuối của mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt vời mà con người có thể khám phá: đó là Thiên Chúa.

Chỉ có những lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao Ngôi Hai lại xuống thế làm người. Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của Ngài.

Vì thế, khi những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và chắc chắn chúng sẽ đến, chúng ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính những lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ biết mở lòng ra, việc mà chúng ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạnh của Ngài.

Đó chính là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng qua bài đọc hôm nay. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi đây.


 

57. Họ cứng lòng khiến Chúa ngạc nhiên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường, hay trong gia đình, cũng sẽ gặp khó khăn và có thể bị ruồng bỏ là kinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông: "Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng... Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn" (Ed 2, 4-5). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát buồn và thốt lên câu nói để đời: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình" (Mc 6, 4). Tại sao vậy?

Biết rõ

Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết gia thế của Chúa Giêsu, biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người.

Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét, sau khi đi thi hành sứ mạng công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, bản quán, nên khi Chúa Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ ẵm bế, như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp, cùng chơi và cười đùa với nhau. Cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt 20 năm trời.

Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy: "Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?" (Mc 6, 2). Nói xong bỗng nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ "vấp phạm vì Người" (Mc 6, 3).

Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người. Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình!" (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.

Không được đánh giá đúng

Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa: cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.

Ông là ai? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1, 27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì? Trên đường hành trình với các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông "Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai? "

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật

Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta nói về con Mẹ: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria!" (Mc 6, 3) Con bà Maria và là Con Thiên Chúa, đó Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người Nagiarét: tin vào Người.

Tin Đức Giêsu là Thiên Chúa

Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các tông đồ, và chứng kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ". Họ biết quê hương mình có người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giêsu, Chúa Cả trời đất…... Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.

Vì, quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng: "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?" (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người ... Người hoàn toàn là con người như chúng ta: ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha ...

Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất ... Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.

Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen.


 

58. Người đã không thể

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Mc 6:1-6: 1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.

Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về những việc quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở nguyên quán dân chúng đã khước từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó. Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản ứng của dân chúng tại đó (6:2b-3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân chúng (6:4-6a).

Về lại nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa Giêsu. Người “ra khỏi đó”, nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó (4:1-5:43), và tìm đến những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm Người, và Người đã để họ đứng bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các môn đệ luôn đi với Người để chứng kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1). Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường ngày sabbát để giảng dạy (cc. 2; 1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân chúng trong cả hai trình thuật là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra quyền năng của Người trổi vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân chúng ở nguyên quán của Người lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo huấn và những việc quyền năng của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của Người. Họ chỉ biết “Người nầy” là con của bà Maria, anh em của Giacôbê,.... Chừng ấy thôi và không biết gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn trong nhận thức về Người bằng đức tin đã đóng lòng họ lại trước con người và sứ mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một thái độ ấy các thành phần trong hội đồng do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy: “Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?” (11:28; 3:22-23). Như thế, “họ vấp ngã về Người” nghĩa là họ không nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin Người là Đấng được Thiên Chúa gởi đến.

Trước phản ứng thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem ra trái nghịch với những điều quyền năng của Người vừa được tường thuật trong đoạn trước (4:1-5:43). Người có thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40; 8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một điều Người không thể làm là áp đặt lòng tin của những người không muốn tin vào Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn đến lòng tin; nên nếu không có đức tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40; 5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái độ của những người ở vùng Gêrasa (5:17).

Sau một loạt tường thuật những giáo huấn và những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, sự không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương phản và gây ấn tượng mạnh, ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người cho Thiên Chúa.


 

59. Đức Giêsu về thăm Nagiarét – JKN.

Câu hỏi gợi ý:

1. Đặt mình vào địa vị những người đồng hương với Đức Giêsu thời ấy, bạn sẽ nghĩ thế nào về Ngài? Bạn có nghĩ và hành xử như họ không? Tâm lý nào khiến họ nghĩ và hành xử như vậy?

2. Tại sao Đức Giêsu lại không làm được nhiều phép lạ tại quê hương Ngài? Việc Ngài có làm được phép lạ hay không tùy thuộc vào Ngài hay vào họ? Điều đó khiến ta kết luận thế nào về phần rỗi và việc nên thánh của ta? Thiên Chúa có thể cứu rỗi hay làm ta nên thánh bất chấp sự cộng tác của ta không?

SUY TƯ GỢI Ý:

1. Tâm lý người đời: trọng vọng lời nói của kẻ giàu có, quyền thế, có học vấn

Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều đó có thể đúng khi áp dụng vào những việc của thế gian (làm ăn, ngoại giao, bon chen, tranh quyền đoạt lợi…). Nhưng nếu áp dụng sự khôn ngoan ấy vào những công việc của Thiên Chúa, vào đời sống tâm linh, vào việc sống đạo… thì thật là sai lầm. Người đồng hương với Đức Giêsu - cùng sinh trưởng tại làng Nagiarét - mắc phải sai lầm ấy. Họ khó có thể chấp nhận được một người nghèo, ít học, thuộc loại lao động tay chân như Đức Giêsu, lại có thể hiểu sâu xa về Thiên Chúa, lại có thể đưa ra những quan niệm mới về Thiên Chúa, về cách sống đạo, về đời sống tâm linh. Nếu có ai nói về Thiên Chúa khiến họ tin được, thì phải là người xuất thân từ trường lớp thần học và có bằng cấp như những kinh sư Do-thái (tức các tư tế, luật sĩ, Pharisêu).

Nhưng nếu dùng ánh sáng hiểu biết của các Kitô hữu ngày nay để nhìn về ngày xưa, ta thấy:

- Đức Giêsu tuy ít học (Ga 7,15), và biết bao người khác tuy ít học nhưng lại hiểu biết về Thiên Chúa sâu sắc hơn những người có học. Trong lịch sử các tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự: chẳng hạn trong Phật giáo có trường hợp của Huệ Năng. Trong số học trò của Ngũ tổ, Huệ Năng là người ít học lại thuộc sắc dân mọi rợ (dân tộc ít người, kém văn minh), nhưng ông lại giác ngộ được chân lý sâu thẳm của đạo pháp. Còn Thần Tú, cũng là học trò của Ngũ tổ, vốn là một vị quan thâm nho của triều đình, học rất rộng biết rất nhiều, nhưng lại chẳng giác ngộ được chân lý.

- Các kinh sư hay thần học gia Do-thái xưa, tuy học rộng biết nhiều, nhưng họ chỉ là những người không biết gì khác hơn ngoài sách vở, ngoài những gì đã học ở trường lớp. Những suy tư của họ chỉ là những điều đã được người khác suy tư sẵn. Họ chẳng khác gì những kẻ “nhai lại bã mía», thấy người khác ăn mía khen ngọt, thì mình cũng lấy bã ấy nhai lại và cũng bắt chước khen ngọt. Trong đời sống tâm linh, họ chẳng phân biệt được cái nào là chính yếu và cái nào là phụ thuộc, cái nào là cốt tủy và cái nào là bì phu, cái nào là mục đích và cái nào là phương tiện, nên chẳng biết cái nào quan trọng hơn cái nào. Vì thế, cái không quan trọng thì họ lại đặt rất nặng, còn cái hết sức quan trọng thì họ lại coi rất nhẹ (x. Mt 15,20; 23,16.18). Họ chẳng thông minh, chẳng có tinh thần thích ứng và sáng tạo nào khi áp dụng luật của Thiên Chúa vào đời sống thực tế. Họ chỉ biết áp dụng lề luật một cách nô lệ, hình thức, thiếu hẳn công lý, tình yêu và sự chân thật vốn là cốt tủy của lề luật (x. Mt 23,23; 12,2; 12,10; Lc 6,7; 13,14; Ga 5,10.18; 9,16). Chính vì thế, Đức Giêsu đã gọi họ là “quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,24), là “người mù lại dắt người mù» (Mt 15,14).

Như vậy, để xét giá trị một lời nói, một hành động, ta phải chủ yếu xét chính lời nói hay hành động ấy xem nó có hợp lý và đúng đắn hay không, chứ không nên chỉ đơn phương căn cứ vào tư cách của người nói điều ấy hay làm hành động ấy.

2. Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay

Những người đồng hương với Đức Giêsu xưa khi nghe Ngài nói thì “nhiều người rất đỗi ngạc nhiên», họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?». Khi nhận xét như vậy, đáng lẽ họ phải nhận ra Ngài là một ngôn sứ của thời đại mới đúng. Nhưng khi nghĩ đến danh phận nghèo hèn của Ngài thì họ lại coi thường Ngài: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?». Thế là chỉ vì Ngài ít học, nghèo nàn, mà họ coi Ngài chẳng ra gì, mặc dù họ ngạc nhiên về chính những lời nói khôn ngoan và những phép lạ của Ngài. Và “họ vấp ngã vì Người».

Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người điên, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Vì thế, nếu ta có tâm lý kiểu đời thường đó mà ở vào trường hợp của những người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn ta cũng đối xử với Ngài chẳng khác gì họ. Và chắc chắn ngày nay ta cũng sẽ đối xử với các ngôn sứ thời đại mình y như vậy. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Nếu ta hành xử như vậy thì ta chỉ là một người coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Một người như thế không bao giờ thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, dẫu họ có đọc kinh, dâng lễ hay rước lễ siêng năng tới đâu đi nữa. Hãy xem Đức Giêsu coi thường như thế nào những kẻ giàu có, học vấn mà không nghĩ đúng, hành động đúng cho dù người đời có trọng vọng họ tới đâu (x. Mt 23). Là Kitô hữu, chúng ta nên bắt chước Đức Giêsu hay bắt chước thói hành xử của người đời?

3. Để thánh hóa ta, Thiên Chúa cũng phải tùy thuộc vào ta

Bài Tin Mừng cho biết: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó» vì họ không tin. Thì ra Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không chỉ tùy thuộc vào quyền năng linh thiêng của Ngài, mà còn tùy thuộc vào lòng tin của chính đối tượng phép lạ nữa. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ ở chính quê hương của Ngài, vì thông thường ai cũng yêu nơi chôn nhau cắt rốn hay nơi sinh trưởng của mình hơn những nơi khác. Nhưng vì những người đồng hương của Ngài không tin, nên Ngài không làm được việc ấy. Tương tự như vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, được thật sự bình an hạnh phúc, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều ấy. Nhưng Ngài có thực hiện được điều ấy hay không còn tùy thuộc vào cả bản thân ta nữa, cho dù Ngài rất quyền năng. Vì thế, thánh Âu Tinh nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài». Nói tới đây tôi nghĩ đến câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: “Có Trời mà cũng có ta», nghĩa là ta cũng đóng vai trò quan trọng, thậm chí có tính quyết định, trong công việc cứu rỗi và nên thánh của chính ta.

Trong việc cứu rỗi và nên thánh của ta, Thiên Chúa đã làm tất cả và luôn luôn sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài có thể làm được để giúp ta. Phần còn lại rất nhỏ là sự cộng tác và nỗ lực của ta. Phần này Ngài không thể làm thay thế cho ta được. Cũng tương tự như cha mẹ có thể lo lắng đủ mọi thứ để con cái mình được ăn uống đầy đủ. Nhưng có điều cha mẹ không thể làm thay cho con cái mình được, đó là nhai và nuốt thức ăn vào bụng. Hay như cha mẹ có thể lo cho con đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng không thể nào học thay, nhớ thay, làm bài thay cho con được. Trong việc cứu rỗi hay nên thánh của ta, phận sự của ta là tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài ở trong ta, lắng nghe tiếng nói của Ngài ở trong ta và làm theo những điều Ngài chỉ dạy. Đó là những việc cần thiết ta phải làm, không ai làm thay cho ta được. Nếu ta quyết tâm thực hiện những điều ấy, thì việc cứu rỗi hay nên thánh của ta trở nên rất dễ dàng. Nếu ta không làm, thì Thiên Chúa dẫu có muốn cứu ta, muốn thánh hóa ta cách mấy Ngài cũng đành bó tay. Vậy ta hãy ráng làm hết sức phần của mình.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, quả thật uy quyền, danh vọng, sự sang trọng của những kẻ quyền thế, giàu có, nhiều bằng cấp làm con bị choáng ngợp, khiến con dễ dàng nhận những điều họ nói là đúng mà không cần suy xét gì cả. Nhiều khi chỉ cần suy xét một chút xíu là con có thể nhận ra ngay sự sai trái trong lời nói của họ, mà con lại không chịu suy xét. Còn những kẻ nghèo nàn, nhỏ bé, yếu đuối, ít học mà phát biểu điều gì, thì con tiên thiên bỏ ngoài tai, chẳng cần biết đúng hay sai. Vì thế, nếu con là một người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn con cũng sẽ coi thường Ngài, chỉ vì thấy Ngài nghèo hèn, thất học. Xin Cha giúp con sửa sai cách hành xử này.


 

home Mục lục Lưu trữ