Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1376552

ĐỪNG DỬNG DƯNG VÀ VÔ CẢM NHƯ THẾ!

ĐỪNG DỬNG DƯNG VÀ VÔ CẢM NHƯ THẾ!

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong bài viết “Giới trẻ trước căn bệnh vô cảm”, đăng trên http://www.giaophanvinhlong.net, tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình, M.F. đã nhận định như sau: “Nhân loại đã bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên với rất nhiều thuận lợi, giúp cho con người […]tiếp cận với nhiều phương tiện hiện đại. Tiếc thay, giá trị đạo đức lại bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến ‘bệnh vô cảm’”. Và, tác giả xót xa cho truyền thống nhân văn của dân tộc đang bị gậm nhấm và sói mòn. Thật vậy, còn đâu câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; hoặc “Thương người như thể thương thân…?”.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy sự “vô cảm”, “dửng dưng”, trước nỗi thống khổ của người anh em. Một Lazarô nghèo khổ, bệnh tật nằm ở ngay gầm cầu thang của nhà phú hộ. Một khoảng cách rất gần về không gian, nhưng tiếc thay, chính sự gần gũi đó lại làm cho họ xa nhau trong cuộc sống vĩnh cửu.

    Ý Nghĩa Lời Chúa

Người phú hộ giàu có hôm nay được thánh Luca trình bày rất gợi cảm: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16, 19). Tác giả không nói rõ người đó to cao, mập mạp thế nào? Nhưng cứ sự thường thì đây phải là một người tốt tướng. Ông ta mang trên mình những thứ sang trọng theo kiểu cung đình. Ông được nhiều người hầu hạ. Và, ăn uống tối ngày với những món ăn đặc sản thời bấy giờ. Nhưng ngược lại với hình ảnh của nhà phú hộ, là một Lazarô nghèo khổ: “Có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16, 20). Hai hình ảnh của hai con người trái ngược nhau ngay trong một căn nhà.

Nếu ông phú hộ là một người oai phong lẫm liệt, thì Lazarô lại là một người thấp cổ bé họng, bệnh tật.

Nếu ông phú hộ mặc những thứ vải vóc sang trọng, thì Lazarô có lẽ chỉ có mảnh vải rách che thân.

Nếu nhà  phú hộ ăn uống linh đình, thì Lazarô chỉ mong được những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống mà cũng không ai cho. Chỉ có những con chó đến liếm ghẻ chốc của Lazarô mà thôi.

Một sự  phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Tuy nhiên, hình ảnh đó đã bị đảo lộn khi cả hai cùng chết. Tin Mừng cho thấy:“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22). Chính cái chết làm cho tình trạng của hai người hoán đổi cho nhau. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Thưa, chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” của nhà phú hộ khi còn sống.

Tin Mừng làm nổi bật sự mỏng dòn của tiền bạc, một lúc nào  đó tiền của không còn là chỗ dựa duy nhất. Hình ảnh của nhà phú hộ luôn coi tiền bạc như lá bùa hộ mệnh của mình; còn Lazarô thì sống dở, chết dở ngay ở cổng nhà ông. Vì vậy, ông chỉ còn một chỗ dựa duy nhất đó là Thiên Chúa.

    Sứ Điệp Lời Chúa

Trong cuộc sống, hẳn mỗi chúng ta đều biết câu ngạn ngữ: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Sự giàu sang ở đời không đảm bảo được sự sống. Mọi người đều có thể chết bất cứ lúc nào. Muốn cho cuộc sống của mình có hậu sau khi chết, thì hãy chuẩn bị cho mình những giấy “thông hành” chính là tình huynh đệ, lòng bác ái, yêu thương ngay khi còn sống. Đây là cách làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Hạnh phúc hay không là do thái độ của mỗi người khi còn sống. Nhà phú hộ trong dụ ngôn ta không thấy có những chuyện bóc lột, đàn áp, hay có lối sống bất chính. Như vậy, ông không có lỗi để đáng phải trừng phạt trong hỏa ngục. Trong toàn dụ ngôn, Đức Giêsu không nói về bất cứ lỗi nào ông ta phạm, chỉ đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau khi sống và lúc chết. Như vậy, tội của nhà phú hộ kia chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” với người anh em đang đau khổ.

Hai thái độ, dẫn đến hai sự lựa chọn và đi đến những hệ quả khác nhau. Nhà phú hộ thì an tâm vì của cải dư thừa mình có; còn Lazarô thì nghèo khổ, ốm đau; nhà phú hộ giàu về vật chất, nhưng ông lại quá nghèo về tinh thần chia sẻ; Lazarô thì nghèo về vật chất, nhưng ông lại rất giàu về đường thiêng liêng, nên sau khi chết, Lazarô lại là người giàu, còn nhà phú hộ lại là kẻ nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa. Lazarô được hạnh phúc, con nhà phú hộ thì đau khổ. Một khoảng cách vĩnh viễn được thiết lập. Cuộc chơi đã hết. Thắng bại phân minh.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: giàu có không hẳn là tội, và nghèo chưa chắc đã phải là  nhân đức. Nó trở nên tội hay không là  do thái độ lựa chọn và sử dụng nó. Nước Trời không có chỗ cho những người ích kỷ, vì  đã không biết yêu thương, do thái độ “vô cảm”; “dửng dưng” trước nỗi khốn cùng của anh chị em.

    Sống Lời Chúa hôm nay

“Mọi sự đều bởi Chúa mà ra, từ Chúa mà đến”.  Thật vậy “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Khi đã xác định như thế, chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa mà thôi. Nếu quản lý tốt và biết sinh lợi cho Chúa thì Chúa để cho chúng ta tiếp tục, mà nếu không biết cách sinh lời thì Chúa cất đi, mà chuyện làm lợi cho Chúa là gì nếu không phải là tình liên đới, bác ái với những người nghèo chung quanh chúng ta hằng ngày. “Hữu lộc bất khả hưởng tận” thật đúng với tinh thần kitô giáo, có lộc không nên một mình hưởng, cần phải nghĩ đến người khác.

Chúa không phạt nhà phú hộ vì ông ta giàu. Chúa cũng không cổ súy cho sự nghèo nàn của Ladarô. Nhưng Chúa mời gọi hãy sống có sự liên đới với nhau để người giàu không dư, người nghèo không đói. Vì thế, ngay từ khi còn sống trên trần gian này, chúng ta hãy gấp rút sửa mình để kẻo quá trễ như nhà phú hộ. Mọi chuyện sẽ có ngày phân định. Cái chết chính là lúc phân minh. Thưởng hay phạt chính là lúc này.

Nhưng, thật xót xa cho xã hội của chúng ta, vẫn còn đó những nhà phú hộ giàu có “dửng dưng”; “vô cảm”. Thật vậy, căn bệnh này đang trong tình trạng báo động. Vì thế, chúng ta hãy “tiêu diệt” căn bệnh này một cách triệt để, bằng cử chỉ yêu thương, tình liên đới. Bao lâu, một xã hội không biết cách vượt ra khỏi căn bệnh trên, là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri (x. Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình, M.F. “Giới trẻ trước căn bệnh vô cảm”, đăng trên http://www.giaophanvinhlong.net).

Ước gì xã hội chúng ta có nhiều người quay lưng lại với sự “vô cảm”; “dửng dưng” và hướng lòng về “tình yêu thương”. Mong thay đâu đó có nhiều con người biết đồng lòng và thương cảm như học sinh Nguyễn Văn Nam. Em đã xả thân cứu bạn em khỏi bị nước cuốn trôi. Em đã coi sự sống của bạn là của mình, nên bất chấp nguy hiểm để hy sinh thay cho bạn của mình được sống. Không cần biết em Nam có phải là người Công Giáo hay không? Cũng chẳng cần biết em có bà con họ hàng gì với những em gặp nạn hôm đó không? Chỉ biết rằng em có trái tim rất đẹp và tình yêu thương vô vị lợi, đáng để cho chúng ta noi gương  (x. Theo Khánh Hoan,Thanh Niên Online, ngày 6.5.2013).

Lạy Chúa Giêsu, giàu không phải là  tội, mà nghèo chưa chắc đã là nhân đức. Xin cho mỗi người chúng con biết sống tình liên đới trong cuộc sống, để dù giàu hay nghèo, chúng con trở thành những người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa. Xin cũng cho chúng con đừng rơi vào tình trạng “dửng dưng”; “vô cảm” như nhà phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay. A men.

 

64. Quan tâm phục vụ người bất hạnh – Lm. Đan Vinh

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về một ông nhà giàu và người hành khất La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu thì ăn mặc sung sướng đang khi La-da-rô có cuộc sống rất tồi tệ. Nhưng sau khi cả hai đều chết đã được Thiên Chúa xét xử công bình: La-da-rô thì được an ủi ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, đang khi ông nhà giàu phải chịu đau khổ trong hỏa ngục.

CHÚ THÍCH:

– C 19-21: + Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình: Dụ ngôn này lấy từ hình ảnh quen thuộc trong xã hội Do thái có những người giàu sống tách biệt với người nghèo. + Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô: Đối nghịch với hình ảnh người nhà giàu kia là hình ảnh La-da-rô nghèo khó khốn khổ. Anh này làm nghề hành khất, người đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. La-da-rô hay Ê-lê-a-da-rô nghĩa là “Thiên Chúa giúp”, ý nói anh ta chỉ còn biết trông chờ một mình Thiên Chúa giúp đỡ mà thôi. + Mụn nhọt đầy mình… Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta: trong Kinh thánh, chó bị coi là con vật ghê tởm và dữ tợn (x. Tv 22,17.21; Mt 7,6). Kiểu diễn tả “ước được những mụn bánh” và “chó đến liếm ghẻ chốc” nhằm làm nổi bật cảnh khốn cùng của La-da-rô và sự thờ ơ ích kỷ của ông nhà giàu.

– C 21-24: + Dưới âm phủ: Theo quan niệm của một số giáo phái Do thái: Người chết bị vào trong âm phủ và tạm thời được xếp thành 2 loại: Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. + Thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ: “Ngồi trong lòng tổ phụ” là một chỗ vinh dự trong bữa tiệc do tổ phụ Áp-ra-ham chủ tọa. Sau này trong bữa tiệc ly, Gio-an cũng được vinh dự “tựa đầu vào lòng Đức Giê-su” (Ga 13,23). + “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”…: Cuộc đối thoại giữa người giàu có với tổ phụ Áp-ra-ham cho thấy số phận của con người ở thế giới bên kia tùy thuộc vào cuộc sống của họ khi còn ở trần gian.

– C 25-26: + “Bây giờ La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”: Người giàu có bị trừng phạt vì khi còn sống đã không sử dụng của cải theo thánh ý Chúa. Còn người nghèo khó được thưởng vì đã chấp nhận sống tinh thần nghèo khó. Cái chết sẽ làm đảo ngược vị trí của người giàu và kẻ nghèo. Chỉ nhờ ơn Chúa thì những người giàu có mới có thể được cứu độ (X. Lc 18,24-27). Nhưng không phải bất cứ người nghèo nào cũng đương nhiên được hưởng lòng Chúa thương xót. Nếu nghèo mà không có tinh thần siêu thoát đối với tiền bạc của cải, thì số phận của họ cũng sẽ bị diệt vong (x. Lc 12,15; Mt 19,29). + “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn”…: Vực thẳm lớn không thể vượt qua, biểu tượng cho tính dứt khoát của số phận của những người được hưởng hạnh phúc hay sẽ phải chịu đau khổ trong thế giới kẻ chết.

– C 27-31: + “Vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con”: Ông nhà giàu muốn dùng kinh nghiệm bản thân của mình để cảnh báo những anh chị em đang sống chung dưới cùng một mái nhà của cha ông. + “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ”…: Sự cảnh báo về việc sử dụng của cải đã hàm chứa trong Luật pháp Mô-sê và Lời Chúa do các ngôn sứ tuyên sấm, đủ thuyết phục họ sửa đổi thói ích kỷ và biết quảng đại nhường cơm sẻ áo cho những người nghèo đói khác. Vì thế nếu những người giàu có đã không hồi tâm sám hối, không phải vì họ đã không có đủ các phương thế giúp ăn năn hối cải, nhưng chỉ vì họ đã cố tình từ chối thi hành các phương thế ấy mà thôi. + “Nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”: Ở đây ông nhà giàu muốn dùng việc kẻ chết hiện hồn về để đánh động lòng sám hối của các người anh em còn sống. + “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”: Câu này là cốt tủy của dụ ngôn. Dù lời dạy của Mô-sê và lời các ngôn sứ không phải là những phép lạ và chỉ nhằm để thúc đẩy người ta tin, nhưng đó cũng chính là Lời Chúa phán trong Thánh kinh (x. Lc 24,27.44). Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng nói đến sự vô hiệu của các phép lạ (x. Lc 10,13). Người cũng khẳng định các dấu chỉ thiêng liêng có giá trị hơn các phép lạ bên ngòai, khi nói: “Anh em hãy tin vào Thầy” (Ga 14,11.12) và: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29b).

CÂU HỎI: 1) Câu nào diễn tả cảnh khốn cùng của người nghèo khó La-da-rô? 2) Bài Tin mừng hôm nay dựa theo quan niệm của Do thái giáo: chia người chết thành hai lọai người nào? 3) Phải chăng người giàu có ở đời này sẽ đương nhiên chịu hình phạt ở đời sau và người nghèo khó ở đời này đương nhiên sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau? 4) Câu nào cho thấy tổ phụ Ap-ra-ham không cho phép La-da-rô hiện hồn về để nhắc bảo các anh em của ông nhà giàu? Tại sao?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16,19-20).
  3. CÂU CHUYỆN: PHIM “NHỮNG ĐỨA TRẺ KHỐN KHỔ”:

Một cô gái quê lên tỉnh đi tìm việc làm và đã bị kẻ gian lừa đến chỗ đã mang thai ngoài ý muốn. Sau đó do không thể vừa đi làm vừa nuôi con thơ, cô đành gởi con cho một chủ quán nhà trọ nuôi giúp. Người chủ quán này là kẻ vô lương tâm, đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của bà mẹ trẻ để ra sức bòn rút bóc lột: nay hắn đòi phải đưa thêm tiền sữa tăng giá, mai lại đòi tiền thuốc chữa bệnh cho đứa con. Bà mẹ trẻ chỉ còn biết nhịn ăn nhịn tiêu để chi trả những số tiền vượt kế hoạch. Khi không còn gì để trả, chị ta đành phải cắt mái tóc óng mượt đẹp đẽ của mình mang đi bán. Rồi sau đó lại phải nhổ từng cái răng để bán tiếp… và chỉ một thời gian ngắn sau đó chị biến thành một phụ nữ ốm đói quần áo lôi thôi rách rưới, mặt mũi xấu xí và bị mọi người khinh dể xa lánh như một người điên. Sau đó chị bị viên quản đốc thẳng tay đuổi ra khỏi chỗ làm giữa một buổi sáng mùa đông giá lạnh, phải co ro trong chiếc áo rách, vừa đi vừa ôm ngục ho sù sụ… Lần khác chị bị một đám đông hè nhau xô té xuống lề đường và thay nhau hò hét đấm đá… Khi xem phim, có lẽ nhờ đã hiểu biết về hoàn cảnh cùng cực của bà mẹ trẻ khiến nhiều ngừoi chúng ta cảm thương, đang khi do thiếu hiểu biết mà nhiều kẻ đã đang tâm hành hạ chị không chút thương tiếc.

Còn chúng ta thì sao? Có khi nào chúng ta đã làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân, thậm chí còn vào hùa với kẻ ác tâm để chế diễu hay hành hạ những kẻ điên loạn nghèo đói gặp phải giữa đời thường hay không?

  1. SUY NIỆM:

1) Thực trạng giàu nghèo trên thế giới hiện nay:

Hiện nay tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển. BIU GHẾT (Bill Gates) giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông thì Liên Hiệp Quốc sẽ có đủ tiền chi cho công cuộc cải cách giáo dục căn bản, phục vụ sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài. Hiện nay hố sâu ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo ở các đô thị và giữa đô thị với vùng nông thôn càng lúc càng lớn. Có 800 triệu “La-da-rô” đang lâm cảnh đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ “La-da-rô” đang bệnh tật mà không được thuốc thang chữa trị. Hàng ngày vẫn có bao người bị chết đói, vì không được hưởng những thực phẩm dư thừa từ cac bàn tiệc của những người giàu. Dửng dưng trước sự đau khổ của người khác cũng chính là một tội ác lớn lao.

2) Thế nào là sự giàu có và nghèo khó thực sự?:

Sự giàu có đích thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi. Người giàu đích thật là người biết cho đi, còn người nghèo thật sự là người chỉ biết đón nhận. Người giàu đích thật là người có ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đầy đủ, đang khi người nghèo thật sự lại có quá nhiều nhu cầu nên lúc nào cũng thấy thiếu thốn. Sự giàu đáng giá nhất là giàu có trong tâm hồn. Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết. Khi ta mở cửa lòng mình ra là lúc ta bắt đầu sống (McCarthy). Khi chỉ biết tìm kiếm sao cho có thật nhiều tiền, cặp mắt người ta sẽ bị che mờ đến nỗi không còn nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa.

3) Phải tránh thái độ làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân: Chính tội làm ngơ của ông nhà giàu đã thành tội nặng khi gây thiệt hại nghiêm trọng khiến La-da-rô bị chết thảm vì đói và bệnh, nên ông nhà giàu đã bị phạt trong hỏa ngục. Như vậy ngoài các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm, còn có thêm tội thiếu sót, không chu toàn bổn phận yêu người, làm ngơ trước những kẻ bất hạnh đang cần đến mình.

4) Phải tập quảng đại: cho đi hơn là nhận lãnh: Ông nhà giàu phải “chịu cực hình” không phải vì giàu có, nhưng vì đã không quảng đại, không biết chia sẻ cho những người đói khát cơm áo tiền bạc dư thừa của mình. Bác sĩ AN-BỚT SUÝT-DƠ (Albert Schweitzer), người đã bán hết gia tài to lớn để xây dựng một bệnh viện để cứu giúp những người cùng khổ ở Châu Phi, đã đặt vấn đề như sau: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc khi còn biết bao người khác đang bị đau khổ?”.

5) Phải bắt đầu từ đâu?:

– Phải bắt đầu từ gia đình mình trước: Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố. Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào”.

– Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: Muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó. Mẹ Têrêsa kể tiếp: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này đã phải chết vì đói!”.

-Tích tiểu thành đại: Theo Mẹ Tê-rê-sa: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến từng cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu nhiều giọt nước khác”.

6) Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài giảng lễ Chúa nhật tại vận động trường Yăng-ki (Yankee) Nữu Ước trong chuyến thăm nước Mỹ 1979 đã phát biểu về việc chia sẻ bác ái như sau: “Người nghèo khổ nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới đều là anh em của các bạn trong Chúa Ki-tô. Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo cho mình cái chính yếu của cuộc sống, và đừng tìm sống sung túc, để nhờ đó, các bạn có thể giúp đỡ cụ thể cho những người nghèo khổ. Ngoài ra các bạn còn phải đối xử với họ như những vị khách quí trong gia đình các bạn nữa”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Một văn sĩ nổi tiếng đã nói: “Mỗi khẩu súng được chế tạo, mỗi tàu chiến được hoàn thành, mỗi hỏa tiễn được bắn ra… Xét cho cùng, chính là một lần ăn trộm của những kẻ đói khát vì không được nuôi dưỡng, của những kẻ bị lạnh lẽo vì thiếu quần áo che thân!”. Bạn có đồng ý với lời đó hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì trong những ngày sắp tới để giúp đỡ cách cụ thể cho một cụ già neo đơn, một trẻ em mồ côi hay một bệnh nhân không tiền thuốc thang chữa trị mà bạn quen biết…?
  2. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, Xin cho con nhìn thấy những La-da-rô nghèo khó đang ở chung quanh con và đang cần đến sự giúp đỡ của con. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó đến với con, để con không xua đuổi, nhưng tiếp đón họ cách thân tình. Cảm tạ Chúa vì đã dựng nên loài người chúng con ai cũng nghèo về một phương diện nào đó, và ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác… Như vậy chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho hết mọi người đều được nên sung túc giàu có.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

65. Liên đới – Như Hạ

Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo và bị áp bức. Chính vì thế, Con Chúa mạc khải tất cả tình yêu Thiên Chúa qua dụ ngôn đầy kịch tính hôm nay. Sự thật đã đảo lộn tất cả những suy nghĩ thường tình. Bởi vậy, cần suy nghĩ sâu xa và quyết định sáng suốt để kịp thời hành động.

LUẬT QUẢ BÁO.

Lời kinh “Magnificat” đã ứng nghiệm từng chữ trong dụ ngôn người phú hộ hôm nay. Không những trở về tay trắng, người giàu còn phải chứng kiến một cảnh đảo lộn chưa từng thấy trên dương gian. Ngày xưa ông sống trong cảnh vinh hoa phú quí “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình.” (Lc 16:19) Trái lại, Ladarô ngước mắt lên “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16:21) Có lẽ Ladarô đã chết vì đói khát bệnh tật. Còn người giàu có lẽ chết vì chè chén say sưa.

Tại sao người giàu bị đầy xuống âm phủ? Phải chăng ông không có quyền hưởng những gì ông đã làm ra? Tin Mừng không hề nói đến cảnh bất công đã đưa ông lên tột đỉnh hạnh phúc. Ông cũng không hề phạm một tội ác hay tạo nên cảnh?nghèo đói của Ladarô. Ladarô cũng không hề mở miệng xin người giàu và bị từ chối bao giờ. Ladarô được thưởng không phải vì nghèo. Nghèo không phải là một điều phúc. Giàu không phải là một tội. Vậy tại sao Ladarô được thưởng, còn người giàu bị phạt?

Vấn đề tùy chúng ta quan niệm thế nào về tội. Trước thánh lễ, chúng ta vẫn đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.” Tội không chỉ tại đã làm hay nói điều gì xấu. Không làm điều tốt cũng là một tội. Điều tốt phải làm trong trường hợp này chính là phải chia sẻ một chút hồng ân Thiên Chúa với người nghèo. Ladarô không ở xa nhà ông ta, nhưng “nằm trước cổng ông nhà giàu.” (Lc 16:20) Ngày ngày ra vào, tất nhiên ông không thể không nhìn thấy cảnh tượng “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.” (Lc 16:21) Nhưng ông đã không thèm để ý đến cảnh khốn cùng đó. “Yến tiệc linh đình” đã lấn át tiếng lương tâm. “Lụa là gấm vóc” đã xóa nhòa hình ảnh ghê tởm. Có lẽ thấy cảnh tượng khốn cùng của Ladarô, ông đã nhổ nước miếng quay đi. Càng nhìn thấy con người bần cùng đó, ông càng thấy khoảng cách quá xa giữa ông và Ladarô. Ông chỉ cắm mắt vào của cải. Đó là lẽ sống duy nhất đời ông. Giá trị con người hoàn toàn tùy thuộc những gì mình chiếm hữu được. Càng thờ ơ, lãnh đạm trước những khổ đau của người khác, càng vinh thân phì da. Không cần có trách nhiệm gì trước những khổ thống của người bên cạnh.

Trên tột đỉnh hạnh phúc, ông thấy rõ chỉ có của cải vật chất mới đem lại hạnh phúc. Ông đặt tất cả niềm tin vào những thực tại trần thế. Chẳng có gì có thể phá đổ niềm tin đó. Mọi sự đều được bảo đảm. Trong tháp ngà hạnh phúc đó, ông sung sướng hưởng tất cả những gì do mồ hôi nước mắt mình đã tạo nên. Giữa một xã hội mọi người có cơ hội đồng đều, chỉ những người lười biếng và ngu dốt mới khổ mà thôi. Ai cũng phải lo cho mình. Tội gì “ăn cơm nhà vác ngà voi”! Tôi không phạm tội, không gian tham, không giết người, như vậy chưa đủ sao? Bổn phận đối với Chúa và tha nhân tôi đã chu toàn, còn đòi hỏi gì nữa? Tội không phải vì đã không chu toàn bổn phận. Nhưng chính lúc không làm gì cho người nghèo khổ và bị áp bức, tôi đã đắc tội với Chúa. Lý do vì sống là liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo khổ. Người nghèo là ưu tiên số một trong những bận tâm của Chúa. Người Kitô hữu cũng phải chia sẻ nỗi bận tâm lớn lao đó. Phải đợi sau cuộc đời này người giàu mới thấy mối liên đới với người nghèo khổ. Lúc mở mắt ra “thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ” Abraham (Lc 16:23), người giàu mới thấy choáng váng. Mọi sự đã quá trễ. Lúc đó chung quanh chỉ còn “lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16:24) Khoảng cách giữa người giàu và Ladarô thành vô cùng. Trước kia Ladarô “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16:21) Bây giờ người giàu thèm một giọt nước từ ngón tay Ladarô (x.Lc 16:24) Quả báo nhãn tiền: “Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.” (Lc 16:15)

Nằm “trong lòng tổ phụ,” (Lc 16:23) Ladarô hạnh phúc muôn đời trong Nước Chúa. Không dụ ngôn nào nhân vật được Chúa đặt tên rõ như vậy. Bởi đấy tên Ladarô phải có một ý nghĩa nào đó trong việc giải thích dụ ngôn. Ladarô có nghĩa “Thiên Chúa là Đấng phù trợ đời tôi,” hay “một người nghèo tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa.” (Ezego: Sunday Homilies for Year C, 27/9/2001) Không phải ai nghèo cũng có niềm tin như thế. Trái lại, biết bao người nghèo oán trách trời đất hay cay đắng vì thân phận hẩm hiu. Đời này không ngóc đầu lên được. Cả đời sau cũng không khá hơn.

Muốn khá hơn, phải lắng nghe lời “Môsê và các Ngôn Sứ,” (Lc 16:29) nhất là Đức Giêsu Kitô. Nếu phải đợi “người chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối,” (Lc 16:30) Lời Chúa chỉ là một bóng ma hù dọa những người yếu bóng vía mà thôi. Nhưng Lời Chúa tác động đến cõi thâm sâu nhất trong nội tâm, vì mạc khải tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Lời Chúa là “thần khí và sự sống.” (Ga 6:63) Nếu sống Lời Chúa, chắc chắn người giàu đã thấy mình phải làm gì cho người nghèo Ladarô. Vì sống là liên đới, cảm thông, dấn thân cho tha nhân.

THẾ LIÊN ĐỚI.

Nhưng Lời Chúa mới “làm cho sống” (Ga 6:63) và “sống dồi dào” (Ga 10:10) cả đời này lẫn đời sau. “Chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi.” (1 Tm 6:12) Thánh Phaolô nói với đệ tử Timốt như thế. Chúng ta cũng được kêu gọi để chia sẻ sự sống đó. Thực tế, sự sống sẽ bị đe dọa mọi mặt khi khoảng cách giữa giàu nghèo quá lớn. Muốn cuộc sống bảo đảm , “trước hết phải đối thoại với người nghèo, không chỉ là nghèo về của cải vật chất mà còn nghèo về phẩm giá, về kiến thức, về niềm hy vọng … Không nên coi người nghèo như đối tượng của?việc từ thiện? nhưng như những con người đáng được tôn trọng và cần được lắng nghe.” (Thư chung HĐGMVN 22/9/2001) Lý do vì “đối thoại là tên gọi mới của niềm hy vọng” (Thượng hội đồng tháng 10-2001, Tài liệu làm việc, số 30) Cuộc đối thoại chỉ thành công khi những người có trách nhiệm cố gắng sống “công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, nhẫn nại và hiền hòa.” (1 Tm 6:11) Giữa thế giới đầy hoang mang hôm nay, không gì khó bằng đem niềm hi vọng cho con người thời đại. Ai có khả năng đem lại niềm hi vọng, sẽ thu hút được quần chúng. Thiên Chúa đang cần đến những người như thế. Chính họ mới là những tông đồ đích thực đem Tin Mừng Hi vọng cống hiến cho nhân loại .

 Tin Mừng mạc khải tất cả giá trị đích thực của những thực tại trần thế. Của cải chỉ là phương tiện để phục vụ chứ không phải để thống trị. Con đường phục vụ chỉ chiếu sáng lên khi người giầu ý thức được sự liên đới với người nghèo. Chính sự liên đới này thúc đẩy người giàu vận dụng mọi phương tiện để chia sẻ với những người cùng khốn hơn mình. Càng chia sẻ càng giàu có. Vì khi chia sẻ, họ sẽ thấy niềm hi vọng lớn lao và vững chắc hơn nhiều. Thiên Chúa sẽ trả lại tất cả những gì đã làm cho những người anh em bé nhỏ nhất (x. Mt 25:31-46). Đúng hơn, khi giúp những anh em khó nghèo, họ đã đặt hi vọng vào một thực tại vượt quá trần thế. Đức tin mạc khải cho chúng ta biết giữa trăm chiều thử thách “chính Chúa Kitô ban cho chúng ta niềm hi vọng đạt tới vinh quang,” (Cl 1:27) và “nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hi vọng.” (Rm 15:13)

Chính đức tin bảo đảm niềm hi vọng lớn lao đó (x. Rm 5:2) và hạnh phúc đích thực. Vì “Thiên Chúa là nguồn hi vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin.” (Rm 15:13) Với niềm hi vọng lớn lao đó, người tín hữu cảm thấy hạnh phúc khi phục vụ những anh em khó nghèo. Chỉ có đức tin mới lấp đầy khoảng cách giữa giàu nghèo và đem lại cho thế giới niềm hi vọng thực sự. Chính Thánh Linh là tác giả đức tin đó.

Nhưng cũng chính Thánh Linh đang hoạt động trong lương tâm mỗi người để khơi dậy những tình cảm liên đới và nối kết mọi người. Chẳng hạn trong cuộc khủng bố tại New York và Washington vừa qua, mặc dù không ngờ thời đại có thể chứng kiến một sự tàn ác đến thế, cũng nhờ đó chúng ta có thể thấy sự kỳ diệu của Thánh Linh trong việc liên kết mọi người. Biết bao người đã hiến máu, tình nguyện và đóng góp tiền của và sức lực rất lớn cho những người mình chưa hề biết. Chỉ trong vòng hơn một tuần kêu gọi, đài Little Saigon tại Houston cuối tháng 9/2001 đã quyên góp được trên 400,000 Mỹ kim.

 

66. Giàu và nghèo – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Trong cuộc sống, chúng thấy người ta thường trò truyện với nhau, có khi còn tranh luận nữa: ai giàu, ai nghèo? Ai giàu vật chất nhưng có tinh thần nghèo, ai nghèo vật chất nhưng có tinh thần giàu? Đối với chúng ta, vấn đề không phải là phân biệt ai giàu ai nghèo, nhưng vấn đề quan trọng là: ai là người có phúc, ai là người bị lên án? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: một người giàu, ăn sung mặc sướng ở đời này, nhưng lại phải khổ ở đời sau. Ngược lại, một người nghèo, đói khát ở đời này, nhưng lại được hạnh phúc ở đời sau. Như vậy, phải chăng giàu có là một tội và nghèo khổ là có phúc?

Trước hết, nói đến giàu nghèo là nói đến tiền của, và nói đến tiền của chúng ta có thể ghi nhận ba điều: Thứ nhất, tiền của cũng như danh vọng, khoái lạc, đối với lòng tham của con người, không bao giờ là đủ, lòng tham này vô đáy. Người ta có thể mơ ước tiền của suốt đêm, bàn tán về tiền của suốt ngày, lo tìm kiếm tiền của suốt tháng, vơ vét tiền của suốt năm… chẳng bao giờ thỏa mãn và chẳng biết bao nhiêu là đủ: ta có một triệu, lại muốn được hai triệu, có hai triệu, ta lại thèm ba triệu, có ba triệu, ta lại ước bốn triệu. Cuộc săn đuổi cứ tiếp tục leo thang, thỏa mãn, cho là đủ rồi, thật là hai tiếng xa vời. Thứ hai, thái độ cần tiền của là chuyện tự nhiên, không ai tránh được, vì ai cũng cần chúng. Và việc cố gắng làm cho có nhiều tiền của không phải là chuyện xấu, cũng như giàu có không phải là một tội, miễn là người ta không kiếm tiền và làm giàu cách bất chính. Thứ ba, tiền bạc, của cải vật chất là điều có thể mất, chúng ta mất chúng vì chúng bỏ chúng ta, như khi tiêu xài, mất mát, nhưng chúng ta cũng mất chúng, vì chúng ta bỏ chúng, lúc chúng ta chết chẳng hạn, chúng ta phải bỏ lại tất cả, chúng có thể hết, vì là vật chất, linh hồn không hết, vì linh hồn thiêng liêng.

Thế nên, tiền của không thể bảo đảm hạnh phúc đời sau cho chúng ta được, mà trái lại, như thực tế chúng ta thấy, chúng thường là nguyên nhân gây ra bao tội lỗi, tật xấu và làm mất hạnh phúc đời sau của chúng ta. Tuy nhiên, tiền bạc của cải, nếu được sử dụng đúng cách, hợp tình hợp lý, cũng có thể là phương tiện mua nước thiên đàng, như giúp đỡ việc công, làm việc bác ái, cứu giúp người nghèo khổ… đó là dùng tiền của để mua nuớc trời, đó là cách thu tích của cải để bảo đảm hạnh phúc đời đời.

Trong dụ ngôn của Tin Mừng, chúng ta thấy không đề cập tới một tội rõ rệt nào của ông nhà giàu, thế mà ông đã sa hỏa ngục, như vậy, nguyên việc giàu đã là một tội chăng? Không, ông bị phạt không phải vì ông giàu, nhưng vì ông đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ. Ngược lại, người hành khất La-da-rô nghèo khổ, nguyên tình trạng nghèo chưa phải là điều kiện để ông được thưởng, mà là ông có tinh thần, có tâm hồn nghèo khó, biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo ý Chúa. Dĩ nhiên sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.

Như vậy, một điều nữa chúng ta cần ghi nhận là có sự tương quan giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu: nếu ông nhà giàu biết đem tiền của chia sẻ cho ông La-da-rô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời. Chính vì thế có người đã nói rằng người Ki-tô hữu có ba loại người bạn là tiền bạc, bà con bạn hữu và việc lành phúc đức. Tiền bạc là người bạn chúng ta thương nhất, quý nhất, chiếm môt vị trí quan trọng trong đời chúng ta, thậm chí khi phải chọn lựa, có người đã không theo lẽ phải, nhưng đã để hấp lực của đồng tiền cuốn hút. Loại người bạn thứ hai cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tim óc chúng ta là bà con ruột thịt và bạn hữu, trong đó phải kể đến người bạn cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với chúng ta, người bạn mà Chúa đã bảo chúng ta với họ không còn là hai nhưng đã trở thành một.

Thân như thế, thương như thế, mà khi chúng ta chết, cả hai đều dừng bước trước cánh cửa vĩnh cửu. Trước tòa Thiên Chúa, tiền bạc như câm nín, chẳng một lời biện hộ cho chúng ta. Còn thân quyến bạn hữu, tốt lắm là theo chúng ta tới huyệt, đẹp lắm là ném cho chúng ta một nắm đất rồi ra về, quên lãng, việc chúng ta gặp gỡ Chúa khó dễ thế nào họ chẳng biết đến.

Còn người bạn thứ ba là việc lành phúc đức, chúng ta không yêu, không thương bằng hai người bạn kia, nhưng lại tín trung với chúng ta hơn cả. Khi sống ở trần gian, nhờ nó chúng ta được mọi người yêu thương quý mến, nhất là khi chúng ta cất bước đi về đời sau, nó là người bạn sát cánh chúng ta hơn cả, nó không dừng lại trước nấm mồ, nhưng theo chúng ta tới tận tòa Chúa, mạnh dạn biện hộ cho chúng ta và đưa chúng ta vào cõi phúc. Người bạn này thật chân tình đối với chúng ta, thế mà khi sống ở đời này, chúng ta chỉ đáp lại hờ hững.

Tóm lại, tiền bạc của cải rời bỏ chúng ta khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, thân thuộc bạn hữu còn nán lại lâu hơn đưa chúng ta tới phần mộ, chỉ có việc lành phúc đức mới đi theo chúng ta vào cõi đời đời. Xin Chúa cho chúng ta từ nay có thái độ gần gũi, gắn bó với người bạn thứ ba nhiều hơn.

 

67. Hạnh phúc hay trầm luân? – Minh Thiện

“Ít tiền ít của mà là người công chính

hơn nhiều vàng bạc mà là kẻ ác nhân

Vì cánh tay bọn ác nhân sẽ bị bẻ gãy,

còn người công chính được Chúa độ trì”

Tv 36, 16-17 đã đưa ra hai hình ảnh đối nghịch nhau: người nghèo sống công chính sẽ được Chúa độ trì, còn người giàu bất chính sẽ bị luận phạt.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, hôm nay một lần nữa Chúa lại dùng dụ ngôn để dạy chúng con về số phận của con người sau cái chết: người nghèo khó cơ cực ở đời này nhưng nếu sống công chính sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau ; còn người giàu có nhưng sống thiếu công bằng, bác ái sẽ phải cơ cực, khốn khổ đời đời trong hoả ngục mai sau. Qua đó, Chúa muốn nhắc chúng con rằng: số phận con người lành hay dữ sẽ được cố định trong giờ chết, và sẽ không còn chuyện ăn năn, sám hối sau khi chết nữa. Vì vậy, phải hoán cải ngay ở đời này để khỏi bị luận phạt trong đời sau. Và sự hoán cải này không phải chờ đợi ở phép lạ hay người chết trở về mách bảo mới tin, mới làm. Nhưng phải tin vào lời Chúa, để từ đó sống cuộc đời thánh thiện, công bằng, bác ái với tha nhân. Và những ai nghèo khổ, hãy biết rằng mình được Chúa chúc phúc, hãy vui sống và cậy trông vào Chúa, phó thác cuộc sống cho Người, nhìn nhận hoàn cảnh đen tối của đời mình dưới ánh sáng Tin Mừng, ắt sẽ được cứu độ.

Lạy Chúa, là con người ai chẳng muốn được hạnh phúc, chẳng muốn được an vui và sống trong sung túc, giàu sang. Chính con người cũng được dựng nên để sống hạnh phúc đấy thôi. Nhưng chỉ tiếc một điều là: con người chúng con thường chỉ nghĩ đến hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi rằng còn có hạnh phúc ở đời sau, và hạnh phúc ấy mới chính là hạnh phúc thật và trường tồn mãi mãi. Vì quên đi điều ấy nên chúng con thường chỉ mưu cầu hạnh phúc ở đời này, bám víu vào những thực tại trần thế, đi tìm sự giàu sang vật chất và thu vén mọi thứ về mình, sống chỉ biết đến mình mà quên đi, hay thậm chí chẳng bao giờ để ý đến những người anh em khác sống xung quanh mình, những người nghèo khổ, đói khát đang rất cần nhận được sự giúp đỡ, cảm thông. Đó là sự ích kỷ mà Chúa đã ám chỉ qua hình ảnh người phú hộ giàu có và đồng thời cảnh báo hậu quả tất yếu sẽ phải gánh chịu ở đời sau.

Lạy Chúa, trong con mắt của người đời, nghèo khó bao giờ cũng là nỗi bất hạnh. Nhưng có lần Chúa lại chúc phúc cho những người nghèo khó: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.” (Lc 6, 20-22)

Quả thật, hôm nay anh Ladarô đã nhận được lời chúc phúc của Chúa. Bởi vì khi công bố mối phúc cho người nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị sỉ vả thì hơn ai hết, chính Chúa cũng đã từng chấp nhận là một người nghèo khổ đến độ “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58), và chính Chúa cũng là người bị sỉ vả, coi thường như phường trộm cắp. Vâng Chúa ơi, con biết chắc rằng Chúa chịu nghèo khổ, đói khát, bị sỉ vả và coi thường như thế không phải vì Ngài bất lực, mà vì chính Ngài đã tự nguyện trở nên nghèo khó và chấp nhận bị ngược đãi. Sở dĩ như thế là vì một điều gì khác, đó chính là thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha.” (Ga 12, 27-28)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúa muốn cho chúng con hiểu rằng, cái phúc của sự nghèo khổ, lầm than mà Chúa gánh chịu là ở chỗ đó. Giá trị ấy không hệ tại ở chính sự nghèo khổ, đói khát. Vì nếu thế, Chúa đã không phải thưởng công cho những ai biết chia sẻ miếng cơm cho người nghèo, thăm viếng kẻ lao tù hay bệnh tật (Mt 25, 31-46), và Hội Thánh cũng chẳng cần quan tâm đến việc bác ái làm chi. Nhưng phúc của cái nghèo ở đây chính là ở chỗ khi người ta biết nương tựa vào Chúa, lấy Chúa làm giá trị tuyệt đối, là cùng đích của đời mình.

Lạy Chúa, sự giàu có không phải là một cái tội, nhưng một khi nó làm cho con người chỉ nghĩ đến bản thân mình mà quên đi những người xung quanh thì đó lại là tội. Ông phú hộ giàu có sống xa hoa với những bộ quần áo sang trọng, hằng ngày yến tiệc linh đình, nhưng ông lại chưa một lần cho anh Ladarô nghèo đói một mẩu bánh vụn nào. Vì vậy, sau khi chết ông cũng chẳng nhận được một giọt nước nào từ anh Ladarô. Vực thẳm ngăn cách giữa ông và anh Ladarô sau khi chết chỉ là kéo dài cái cửa mà trước đây anh Ladarô đã nằm và cái bàn tiệc của ông. Đó là vực thẳm mà ông phú hộ đã không lấp bằng đi khi hai người con sống, vì ông ta đã không nghe lời mời gọi khẩn thiết của Chúa về việc sử dụng tiền bạc để làm cho người nghèo Ladarô trở thành bạn hữu của mình. Lời mời gọi này cũng không phải là điều gì quá mới mẻ mà ông ta không biết, vì nó đã được chứa đựng trong lời dạy của các ngôn sứ và trong Lề Luật. Vì vậy, không một phép lạ nào, dù cho kẻ chết có sống lại, có thể hoán cải được những kẻ đã từ chối đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các ngôn sứ.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để chúng con nhận ra Chúa nơi tất cả những người chúng con gặp gỡ hằng ngày, nhất là nơi những người nghèo khổ, bệnh tật, nơi những người thiếu thốn tình yêu thương, để chúng con biết thông cảm, an ủi và sẻ chia với họ như Chúa đã nói: “Điều ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)

Lạy Chúa, xin cũng giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của mọi kho tàng dưới đất, và xin cho chúng con biết dùng của cải trần gian mà mua lấy hạnh phúc Nước Trời (Lc 12, 33). Amen.

 

68. Khoảng cách định mệnh – Đỗ Lực

 Tin trong nước vừa cho biết: “Trưa 23/9, Đội 5 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP HCM (PC14) kết hợp với Công an phường 13 quận Bình Thạnh tiến hành khám xét quán karaoke tiệc cưới Đại Nam tại đường Nơ Trang Long. Trong nhiều phòng karaoke, cơ quan công bắt phát hiện 17 người đàn ông Hàn Quốc đang tuyển chọn 75 cô gái Việt Nam làm vợ.” [1]  Đây không phải là trường hợp duy nhất.

Vì sao có tình trạng trên?  Nguyên nhân trực tiếp là: “Đường dây này do Huỳnh Văn Bình (46 tuổi, Bình Trị Đông, Bình Tân) làm chủ.”[2] Nhưng nguyên nhân sâu xa và rộng lớn hơn phải nằm trong những cơ chế bất công xã hội. Dụ ngôn hôm nay sẽ vạch trần tất cả nguyên nhân sâu xa gây nên các tệ trạng trong xã hội hôm nay.

TỪ GẦN TỚI XA

 Trình thuật Tin Mừng hôm nay về người giàu và người nghèo Ladarô là cao điểm giáo huấn của Chúa Giêsu về nguy cơ của sự giàu có. Tin Mừng phát xuất từ giữa những người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và có địa vị thấp kém, như Đức Maria, các người chăn chiên, bà Anna và ông Simêon.  Đó là những người biết mở lòng đón nhận lời Chúa.  Tin Mừng Luca thường được gọi là “Tin Mừng cho Người Nghèo.” Thế nhưng, có quá nhiều điều nói về những nguy cơ của những của cải và những cạm bẫy người giàu phải trực diện khi đáp lại tin mừng, nên Tin Mừng Luca cũng được gọi là “Tin Buồn cho Người Giàu.”

Hai hình ảnh đối chọi sắc nét xuất hiện ngay từ đầu dụ ngôn. Của cải làm con người xa lạ và cách biệt nhau (dĩ nhiên!). Một bên lụa là gấm vóc (thời xưa rất mắc). Một bên chỉ có tấm áo da với những ghẻ chốc đầy mình. Một bên yến tiệc linh đình giữa những thực khách sang trọng. Một bên ăn những thứ thối rữa cùng với đồng bạn là những  con chó đói. Một bên tên tuổi lừng danh giữa những ông bà tai to mặt lớn. Một bên vô danh tiểu tốt giữa bày chó hoang.

 Sống trong cảnh tương khắc giàu nghèo, con người không thể không có những suy nghĩ về số phận trần gian. Của cải là một cạm bẫy đối với người giàu, nhưng là một cám dỗ đối với người nghèo. Cả hai đều có thể mất đức tin vì của cải. Người nghèo hết lòng tin tưởng và tuân giữ mệnh lệnh Chúa truyền, nhưng chỉ gặp toàn bất hạnh.  Trong khi đó, những người khinh thường Thiên Chúa lại được hưởng mọi thứ hạnh phúc trên đời và thành công về mọi mặt. Ngày xưa dân Do thái, những người khôn ngoan vẫn tin Thiên Chúa thưởng người công chính và phạt người tội lỗi. Sự khôn ngoan đó đã lâm vào cơn khủng hoảng, ít nhất từ thời Lưu đày. Đời sống cá nhân cũng như cả dân tộc đều  đau khổ hơn những người và dân tộc chung quanh.[3]

Nhưng tất cả đều đảo ngược dưới cái nhìn của Đức Giêsu. Dụ ngôn đã không lưu lại hậu thế tên ông phú hộ. Thế là ông trở thành vô danh trước Thiên Chúa và nhân loại đến muôn đời. Còn người nghèo vô danh tiểu tốt lại lưu danh muôn thuở dưới danh xưng Ladarô (nghĩa đen là Thiên Chúa cứu giúp). Dưới cái nhìn của Đức Giêsu, trật tự xã hội đã bị đảo ngược.

Hơn thế, trật tự thiên đàng còn khác xa hơn nữa. Trước kia, trên trần gian, Ladarô sống giữa chó. Chúng chỉ quấn quít bên anh vì những mụn nhọt, chứ không biết gì đến anh. Còn ông phú hộ được mọi người vây quanh và chú ý. Hạnh phúc bao giờ thiếu vắng. Không bao giờ ông biết đến cảnh cô đơn. Bây giờ, cái chết đã đem đến bất ngờ. Tất cả đều đảo ngược. “Khi chết, ông Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, ông Abraham, tổ phụ những người có đức tin.  Ngược lại, ông nhà giàu chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn.”[4] Nhưng nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Đây là một cực hình khủng khiếp nhất. Những đau khổ thể xác không thấm thía gì. Ông đã phải học lấy bài học về cuộc đời bằng chính kinh nghiệm mình. Một giá quá mắc!

Khi nhìn lên trời, ông thấy Ladarô đang vui vẻ trong lòng Abraham, ông mới nhìn ra nỗi khốn cùng của mình. Tình cảnh bây giờ thật tội nghiệp. Ông trở thành người nghèo thực sự. Bây giờ ông mới hiểu thế nào là số kiếp ăn mày.  Ông van xin Abraham sai Ladarô hiện về cảnh cáo những người anh em đang sống trong xa hoa trên trần gian. Giờ này ông mới biết quan tâm tới số phận của người khác. Tất cả đã muộn đối với ông, nhưng còn kịp đối với họ. Thế giới vẫn sẵn những phương tiện và cơ hội để con người chuẩn bị cho hạnh phúc vĩnh hằng. Phương tiện đó là Lề Luật và lời các ngôn sứ. Ông từng nghe Sách Luật truyền phải quan tâm tới người nghèo khổ và cùng khốn. Các ngôn sứ cũng đưa ra những lời cảnh báo tương tự. Dù thế, người giàu vẫn tin nếu có một người chết như Ladarô hiện về, anh em của ông mới chịu khuất phục. Abraham vẫn không đồng ý và khẳng quyết Lề Luật và các ngôn sứ đã đủ giúp con người trở lại.

Trong khi người giàu không thể thỏa mãn nguyện vọng, thì Kitô hữu đã được nghe tiếng của một người từ cõi chết trỗi dậy. Đó là Đức Giêsu Kitô. Người đã từng nghe tiếng Môsê và các ngôn sứ. Nhưng còn mạnh hơn Môsê và các ngôn sứ, Người đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Người đã yêu thương và chấp nhận những người bị gạt ra ngoài xã hội, trong khi điềm tĩnh cảnh cáo những người kiêu ngạo và giàu có.

Dĩ nhiên, cũng như các ngôn sứ, Chúa Giêsu không lên án những người giàu vì sự giàu có, nhưng vì họ tự mãn trước những gian khổ người khác đang phải gánh chịu. Vậy tại sao người giàu trong dụ ngôn này lại phải chịu một số phận kinh khủng như vậy? Trước hết, vì cả ông và Ladarô đều có liên hệ với Abraham, nên chắc chắn phải là những người chia sẻ cùng một giao ước. Bởi thế, họ có những trách nhiệm do giao ước đặt ra. Đây là chiều kích xã hội của giao ước. Muốn tránh định mệnh khắc nghiệt như ông, các người anh em chỉ cần tuân theo những mệnh lệnh giao ước. Một trong những mệnh lệnh đó là phải chăm sóc đến những người nghèo khổ.

Bổn phận đó phát sinh từ mối liên đới huyết tộc với một vị tổ phụ niềm tin là Abraham. Nhưng ông phú hộ đã quên sót. Ông bị luận phạt nặng nề không phải đã làm điều gì sai quấy. Ông không lấy cắp hay đả thương Ladarô. Tuy nhiên, ông có một trách nhiệm rất lớn đối với Ladarô. Ông đã làm ngơ và không chu toàn bổn phận. Vì thế, ông đã phạm tội quên sót rất lớn. Hình phạt nghiêm trọng cho thấy bổn phận đó nặng nề.

Nếu biết mở tấm lòng đón nhận Ladarô, chắc chắn ông phú hộ đã có thái độ khác. Ông đã quan tâm chú ý tới nhu cầu của tha nhân, chứ không quanh quẩn tìm cách thỏa mãn chính mình. Sự thật đơn giản này chỉ được ông nhận ra khi nằm dưới âm phủ. Khác với ngày còn trên trần gian, dù có muốn, Ladarô cũng không có phương tiện và cơ hội giúp ông ấy nữa. Khoảng cách ngày xưa ông đã không vượt nổi, mặc dù rất ngắn, làm sao bây giờ ông lại có thể đòi Ladarô vượt một khoảng cách dài vô tận?! Không phải vì Ladarô muốn trả thù ông. Nhưng công lý cần phải được thi hành.

Không có bức tranh nào diễn tả và nói lên tất cả sự thật toàn vẹn về công lý như dụ ngôn về ông phú hộ và người nghèo Ladarô hôm nay. Nếu biết trước công lý có một chiều kích lớn lao như thế này, chắc chắn ông phú hộ đã có thái độ và lối sống khác.

CHỌN MỘT THÁI ĐỘ

Tất cả đều tùy thuộc thái độ con người trong cuộc sống trần gian. Chúa Giêsu luôn cố gắng trình bày những thái độ căn bản con người cần phải có khi sinh sống và hoạt động. Nơi nào thấy con người có thái độ bất xứng, Người đòi cá nhân phải thay đổi để con người ngày càng đạt tới mức nhân bản đich thực hơn và phù hợp với thánh ý Chúa hơn. Thái độ căn bản Chúa Giêsu muốn chúng ta có là cởi mở đối với Thiên Chúa và đồng loại. Mọi sự khác sẽ từ đó phát sinh. Thái độ căn bản này là nền tảng xây dựng toàn bộ đời sống đức tin và đạo đức.

Chính vì thiếu thái độ căn bản đó, ông phú hộ đã không vượt nổi một khoảng cách rất ngắn. Người nghèo nằm ngay trước cửa ông phú hộ. Khoảng cách con người tạo ra không ngờ trở thành định mệnh vô cùng bi đát. Khoảng cách đã được nhân lên đến vô cùng cả về thời gian lẫn không gian. Đó là chưa kể đến cuộc sống khác biệt như có và không vậy giữa hai con người. Trong khi Ladarô bơi lội trong đại dương tình yêu Thiên Chúa, thì người giàu thèm khát một giọt nước cũng không được thỏa mãn. Cảnh diễn lại y hệt ngày xưa Ladarô mơ ước có một mụn bánh từ bàn tiệc rớt xuống cũng không ai cho. Công lý đã sáng tỏ!

Ánh sáng công lý chiếu rọi vào cuộc đời. Công bình vượt qua cả việc thuần túy chia sẻ của cải vật chất. Dụ ngôn cho thấy điều đó. Nên nhớ, khi sống Ladarô phải ngồi ngoài cổng. Nhưng khi cả ông phú hộ và Ladarô đều chết, Thiên Chúa đã đem Ladarô vào bên trong.

Người nghèo là những con người. Họ có nhân phẩm và đáng được tôn trọng, vì nhân vị của họ và vì họ cũng được Chúa Kitô cứu độ. Không phải của bố thí, viện trợ, món quà như thực phẩm, quần áo làm thay đổi cuộc sống người nghèo. Nhưng chính thái đô chúng ta đối với họ đem lại cuộc thay đổi. Chính tình người nồng ấm, sự chia sẻ cuộc sống và đức tin đem lại niềm hy vọng.

Chúng ta không thể làm nên cơm cháo gì, nếu không nói chuyện với họ. Vấn đề có vẻ đơn giản. Nhưng thường chỉ khi tiếp chuyện với họ, chúng ta mới bắt đầu coi họ như con người mà thôi. Chỉ khi nói truyện với họ, chúng ta mới bắt đầu bắt một nhịp cầu.

Đức Giêsu đã yêu người nghèo. Bằng thái độ và lời nói, Chúa đã nâng người cùng khổ và đem lại cho họ niềm hy vọng và chữa lành. Không thấy Tin Mừng ghi lại một cơ hội nào Chúa cho người nghèo tiền bạc. Người cho họ những gì Người cho mọi người khác. Người cho họ tình yêu. Sau cùng, Người cho họ chính mạng sống của mình.

Đó chính là bài học Chúa để lại trong Tin Mừng. Chỉ sống cuộc sống như Chúa, có thái độ như Chúa, nói những lời như Chúa, chúng ta mới có thể xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian và làm cho nhân loại xích lại gần nhau và gần Thiên Chúa hơn.

LADARÔ THỜI ĐẠI

Ladarô thời đại đang tràn ngập khắp phố phường và các vỉa hè. Họ là nạn nhân của những chế độ bất công. Chẳng lẽ phải đợi lên thiên đàng, người nghèo như Ladarô mới được đền bù? Thực ra Chúa muốn dùng dụ ngôn để tỏ bày thái độ cương quyết tuyên chiến với sự bất công. Lời Chúa đã làm cho con người bừng tỉnh trước chân lý cuộc đời. Đức tin đã cho Kitô hữu thấy sự khôn ngoan đích thực không dựa trên của cải vật chất trần gian, nhưng trên Thiên Chúa. Lời Chúa cho thấy rõ ai dại ai khôn.

Theo gương Đức Kitô, Giáo hội cương quyết tranh đấu cho người nghèo. “Sự nghèo đói đặt ra một vấn đề công bình nghiêm trọng. Với nhiều hình thức và hậu quả khác nhau, đặc tính của nghèo đói là sự tăng trưởng bất quân bình. Người ta không chịu nhìn nhận “mọi người đều có quyền bình đẳng ngồi vào bàn tiệc chung. Sự nghèo đói không thể nào làm cho con người hưởng trọn vẹn quyền làm người.”[5] Nghèo đói sinh ra dốt nát. Người ta còn vin vào đó để chống chế và biện minh cho sự độc tài của giai cấp thống trị. Hệ lụy này kéo theo hệ lụy kia. Chẳng bao giờ mới hết cảnh người bóc lột người. Điển hình nhất là quốc nạn tham nhũng.

Theo ông Liao Ran, điều phối viên cao cấp của Tổ chức Minh bạch Quốc tế chuyên phụ trách về khu vực Đông Nam Á, “trên bảng xếp hạng về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2007, Việt Nam bị sụt hạng, hiện đứng thứ 123 trên tổng số 180 quốc gia trên thế giới được khảo sát.”[6] Quả thế, ông Liao Ran đưa ra nhận định: “Nếu chính phủ Việt Nam thật tâm muốn phòng chống tham nhũng, họ nhất thiết phải thông qua các luật lệ hay quy định cụ thể, tạo điều kiện cho hệ thống pháp luật được độc lập. Ngoài ra, những cơ quan phòng chống tham nhũng và các phương tiện truyền thông, báo chí cũng phải được độc lập, không lệ thuộc nhà nứơc. Quan trọng hơn, nhà nước cần phải khuýên khích ngừơi dân mạnh dạn tố cáo tiêu cực bằng cách ban hành luật lệ rõ ràng bảo vệ người dân khi họ phát giác hay đấu tranh chống tham nhũng.”[7] Nếu hệ thống pháp luật độc lập và báo chí tự do, liệu điều 4 Hiến Pháp còn tồn tại không? Tham nhũng còn là cơ hội béo bở cho các cán bộ nữa không?

Không ai cầm được nước mắt khi nghe tin: “Khoảng 8 giờ sáng ngày thứ Tư 26-9-2007, cây cầu Cần Thơ đang trong quá trình xây dựng bất ngờ bị sập làm hàng chục người chết và hơn 100 người bị thương.”[8] Nguyên nhân tại đâu? Nếu báo chí không được tự do, bao giờ sự thật mới được phơi bày? Nếu con hạm tham nhũng là những tai to mặt lớn trong đảng cộng sản, hệ thống pháp luật và báo chí nào dám đưa ra ánh sáng?

Khó lòng chối cãi vai trò tham nhũng trong thảm kịch cây cầu Cần Thơ. Tham nhũng đúng là quốc nạn! Cây cầu Cần Thơ chưa phải là thảm họa cuối cùng của quốc nạn tham nhũng. Thanh Niên Online mới chỉ dám loan tin: theo “một chuyên gia xây dựng có trách nhiệm từ một cơ quan nhà nước  ‘cột chống ở hiện trường không giống với cột chống trong bản vẽ,’ có nghĩa là, nếu chuyên gia này (có tên T.D.) đúng, thì vụ sập cầu Cần Thơ đến tự dàn giáo.”[9] Nguyên nhân trước mắt là dàn giáo. Nguyên nhân sâu xa tại đâu?

Lạy Chúa, xin cho người giàu bớt lòng tham lam. Xin Chúa thu ngắn khoảng cách giàu nghèo, để mọi người ngày càng sống hạnh phúc hơn. Amen.

—————————————————————–

[1] http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2007/09/3B9FA8B9/

[2] Ibid.

[3] x. ĐGH Bênêđictô XVI, Jesus of Nazareth, 2007:212.

[4] Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:367.

[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 449.

[6] www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/09/27/ Vietnam_Corruption_Perceptions_Index_2007_TMi/

[7] ibid.

[8] www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/09/26/ Deadly_bridge_collapse_in_CanTho_TVan/ 

[9] www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=66626&z=75

 

home Mục lục Lưu trữ