Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 26

Tổng truy cập: 1376647

ĐỪNG VÔ CẢM TRƯỚC NỖI KHỔ CỦA ĐỒNG LOẠI

ĐỪNG VÔ CẢM TRƯỚC NỖI KHỔ CỦA ĐỒNG LOẠI

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)

Ý tưởng chung: Cuộc sống đời này không phải là hưởng thụ, nhưng là phục vụ. Người nghèo được Thiên Chúa quan tâm đặc biệt. Vì họ thường bị bóc lột và lãng quên. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu hãy biết trông đợi ngày Chúa quang lâm, để số phận mỗi người được phân định rõ ràng.

Thưa quí vị,

 Sách tiên tri Amos rất ngắn, chỉ gồm 144 câu, chia ra làm 9 chương. Mỗi chương hơn chục câu. Nhưng lại được phụng vụ trích đọc khá dài. Lý do là vì quan điểm của vị tiên tri về của cải vật chất về người nghèo khổ, gần giống với phúc âm Luca. Có thể nói nó bổ túc cho lời rao giảng của Chúa Giêsu. Bài đọc hôm nay ở đoạn 6: “Khốn cho những người sống yên ổn tại Sion và sống an nhiên, tự tại trên núi Samari, nằm dài trên giường ngà, ngả nghiêng trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng, chúng đàn hát nghêu ngao”. Tiên tri mạt sát nếp sống an toàn giả tạo của những kẻ cầm quyền lúc bấy giờ. Họ thu tích giàu sang của cải trái đất mà an hưởng nhung lụa, sung sướng. Đồng thời nghĩ rằng như vậy là được phúc lành của Thiên Chúa, được Ngài ưu ái, che chở. Tuy vị ngôn sứ công nhận vị trí đặc biệt của tuyển dân Israel. Nhưng tiên báo sự sụp đổ ghê gớm của thành thánh Giêrusalem. Bởi vì đã không làm tròn nhiệm vụ của một dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn. Đoạn trước đó (5,20) tiên tri đã nói đến “ngày của Chúa. (eschaton). Ngày mà quyền bính đền thờ, những kẻ giàu có, những người sang trọng mong đợi như giây phút tưng bừng, hoan hỷ, khải hoàn chiến thắng của Giavê thì Amos tiên báo là ngày kinh hoàng. Ngày Thiên Chúa phán xét và báo oán, chính vì nếp sống của những kẻ cầm quyền: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đầy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đầy. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn”.

Nên lưu ý những hình ảnh thi vị ngôn sứ dùng để mô tả tình trạng đối nghịch giữa người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn: Giường ngà đối với ổ rơm, thịt thà đối với bụng đói, đàn hát phè phỡn đối với lao động cực nhọc. Điều mà kẻ quyền thế coi như vững chãi thì vị ngôn sứ nói là khốn nạn trước mắt Đức Chúa Trời. Ông nhấn mạnh từng chữ với giọng điệu kinh tởm. Những con người sa đoạ này là những kẻ đầu tiên đi đày, kéo theo cả dân tộc lâm cảnh lầm than. Phải chăng lời tiên tri của ngôn sứ Amos cũng áp dụng cho nếp sống xa hoa của xã hội đương thời, nhất là cho những vị lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo? Những cuộc truy hoan của họ chẳng kém thời Amos. Cho nên khủng bố, chiến tranh không phải là ngẫu nhiên. Nó là kết quả của áp bức kinh tế, chính trị. Những bóc lột bẩn thỉu và tàn nhẫn, những kế hoạch sai lầm dựa trên chủ thuyết của Satan chứ không phải của Chúa Giêsu! Cứ nhìn vào những quay cuồng vì lợi nhuận to lớn, các mánh khoé kinh tế, tự khắc nhận ra tình trạng sa đoạ của xã hội hôm nay, không khác mấy thời tiên tri Amos, có khi còn vượt xa hơn. Người ta hô hào thăng tiến xã hội, văn hoá, nhưng thực tế là thụt lùi luân lý.

Lấy ví dụ xã hội Hoa Kỳ, con số người nghèo hiện thời suýt xoát 50 triệu, tức 1/5 dân số. Tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng: Cờ bạc, ma túy, kết hôn cùng giới, li dị, bất mãn, sa đoạ, phóng túng. Thêm vào đó những phương tiện truyền thông hàng ngày cổ võ các hình thức vui chơi quái đản: Bạo lực, dâm ô, ma quái, kinh dị, thù hận, trả đũa dã man. Ngược lại, không có lấy một phương tiện tuyên truyền đạo đức, yêu thương nếu có thì cũng rất yếu ớt trong các tổ chức tôn giáo. Làm sao mà chống lại lực lượng vũ bão của hoả ngục? Cho nên tiên tri Amos có lý khi tuyên sấm chống lại ảo tưởng “chúc lành” của Giavê, trong khi thực tế tai hoạ “khủng khiếp” đang đến gần.

Người giàu trong dụ ngôn hôm nay không có tên và ông cũng chẳng làm gì sai trái. Ông không vi phạm một giới răn nào của Thiên Chúa, tuy hàng ngày nhìn thấy Lazarô nghèo khổ lê la trước cửa. Vậy mà ông lại rơi vào danh sách những người bị Amos nguyền rủa: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn ở Sion. Suốt cuộc đời an hưởng sự giàu có của mình, ăn vận lụa là gấm vóc. Ngày ngày yến tiệc linh đình”. Lazarô đói khát ước ao những vụn bánh rơi tư bàn của nhà phú hộ để ăn cho đỡ đói. Phải chăng thánh Luca muốn ám chỉ đa phần nhân loại? Nên nhớ phúc âm tuần trước Chúa Giêsu tuyên bố chúng ta chẳng thể làm tôi hai chủ: Mammom (thần tài) và Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát lựa chọn, không có chuyện lưỡng lự về ưu tiên hoặc bất động trong thái độ. Nếu không sử dụng của cải một cách khôn ngoan theo tinh thần phúc âm, chúng ta sẽ rơi vào lời kết án của Amos.

Sau bài Tin mừng tuần trước, phụng vụ bỏ mấy câu (14,18) để tiếp sang phúc âm hôm nay. Câu 14 nói: “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy thì chế nhạo Chúa Giêsu” cho nên Ngài kể dụ ngôn này để trả lời họ. Nó nhấn mạnh hơn đề tài chương 16: Nguy cơ của tiền bạc dưới nhiều hình thức. Thánh Luca xem ra rất triệt để trong cách đối sử với người nghèo khó. Chương 6 thuật lại Chúa chúc phúc cho họ và nguyền rủa những ai giàu có ích kỷ. Khi đọc phúc âm Luca chúng ta nên lưu tâm điểm này. Có lẽ thánh nhân là một thầy thuốc nên hiểu rõ những khốn khổ của người nghèo.

Người nghèo khổ sinh ra, lớn lên và xuống mồ không ai biết đến. Những người đẽo bia mộ thường khắc mấy dòng chữ: “Muôn đời hãy nhớ đến người thân yêu”. Nếu có tiền, quý vị có thể mua một tấm cho thân nhân quá cố. Nhưng với vô số người nghèo khổ thì chẳng có chi để ghi nhớ. Họ chết và bị lãng quên. Tuy nhiên với thánh Luca, ông đã nghĩ ra một cách để nhớ đến họ. Trong văn chương kinh thánh, ông đặt tên cho họ là Lazarô. Tưởng chừng như thánh nhân muốn nói: “Đây nhé, muôn đời người ta sẽ chẳng quên anh Lazarô”. Đồng thời thánh nhân khuyên nhủ chúng ta rằng, tiền của, giàu có, tiếng tăm chẳng qua là sự đời này, rồi sẽ có ngày chấm dứt, không tồn tại vĩnh viễn được đâu. Vậy tại sao thu tích chúng để rồi bị quên lãng đời đời? Chúng ta được mời gọi suy nghĩ kỹ lưỡng hơn về đề tài này, ngõ hầu lựa chọn cho thông minh và xây dựng điều vĩnh cửu. Qua dụ ngôn, một lần nữa Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta Ngài về phe với những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương. Chính Ngài đã sinh ra trong một gia đình thấp hèn. Dâng mình trong đền thờ bằng của lễ của người bần cùng. Sống nghèo và chết cay đắng. Những ai theo Ngài lên Giêrusalem đều được dạy dỗ phải canh chừng của cải và nếp sống giàu sang.

Của cải tự nó không phải là điều xấu, nhưng lòng tham lam là điều phải tránh. Người phú hộ hôm nay không quan tâm đến nguy hiểm đó. Ông sống tự mãn, chẳng nghĩ đến ai, ngay cả Lazarô trước cửa nhà ông. Chi tiết của dụ ngôn Chúa kể làm chúng ta nhức nhối. Ai có thể không nhớ đến câu chuyện? Những con chó còn đối xử với Lazarô tốt hơn ông chủ nhà. Chúng liếm ghẻ chốc cho Lazarô, làm vơi nhẹ nỗi đau đớn, trong khi đồng loại không đoái hoài đến nhau! Đau xót biết chừng nào! Các thính giả của Chúa Giêsu hẳn lấy làm ngạc nhiên khi họ vẫn có não trạng giàu có là được Chúa thương, và ngược lại, nghèo đói là dấu chỉ bị trừng phạt bởi đời sống tội lỗi. Dụ ngôn hoàn toàn bác bỏ suy luận ấy. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến người nghèo khổ, như Đức Mẹ đã nói lên trong kinh Magnificat: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có lại đuổi về tay trắng”. (1,53). Dụ ngôn đúng là truyện mỉa mai: Những người xây lăng dựng mộ cho mình, khi chết lại bị quên lãng. Còn kẻ vô danh tiểu tốt, khi khuất bóng lại được nhớ đến đích danh Lazarô. Họ có một chỗ xứng đáng trong vương quốc Thiên Chúa, nơi lòng ông Abraham.

Sự đần độn của nhà phú hộ còn được tỏ rõ do những yêu cầu của ông ta sau khi chết. Ông ta muốn tổ phụ Abraham sai Lazarô đem đến cho mình vài giọt nước mát. Thế ra Lazarô vẫn là đầy tớ ông ta! Cho nên ông ta lại sai Lazarô về nhà báo tin cho 5 anh em còn sống về tình trạng khốn đốn của mình! Lòng chai đá của ông già mắc dịch thật mãnh liệt, ngay cả trong hoàn cảnh khốn khổ. Ông chẳng thể hiểu được mình và Lazarô. Ông tiếp tục khinh bỉ người nghèo khó, không thèm nói chuyện trực tiếp với họ, vẫn coi họ là tôi tớ chạy việc vặt trong kiếp sống tương lai! Câu chuyện thật là thấm thía. Chưa hết, Chúa Giêsu còn làm cho chúng ta ngỡ ngàng khi chẳng đả động gì đến luân lý: Được thưởng vì đời sống đạo đức và bị phạt về hành vi tội lỗi. Tất cả câu chuyện chỉ là Lazarô nghèo khó và ông phú hộ ích kỷ sống trên nhung lụa, của cải, chẳng lưu tâm đến ai khác. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và hoàn lại công bằng cho mỗi cuộc đời. Đây là điểm thần học quan trọng cần suy nghĩ nghiêm chỉnh.

Giống như bài đọc cựu ước, bài Tin mừng rất nhạy cảm về những đau khổ của kẻ nghèo hèn. Cả hai văn bản đều kêu gọi công lý cho những kẻ bị áp bức. Công lý thế nào? Nó được thực hiện ra sao ở đời này? Nếu như người giàu có còn chút quan tâm, thì là ông nhớ đến 5 anh em mình. Ông muốn họ biết được số phận đang chờ đợi họ, nếu cũng sống như ông ta. Abraham bảo ông: “Họ đã được cho biết mọi sự để sống ngay lành, chúng đã có Môsê và các tiên tri thì chúng hãy nghe lời các vị đó”. Nghĩa là lời dạy về thương yêu kẻ khó nghèo không phải là điều mới lạ. Truyền thống tôn giáo Do Thái đã dạy dỗ đầy đủ rồi, khỏi cần thêm thắt điều chi. Ngày nay chúng ta cũng đã được Chúa chỉ bảo những điều phải biết để lựa chọn mục tiêu chính đáng cho cuộc đời, không thể viện cớ ngu dốt để trốn tránh bổn phận.

Không ai có thể làm tôi hai chủ, chỉ có thể chọn một, thế gian hoặc Thiên Chúa. Hành động cho thế gian là tìm tiền bạc, của cải. Hành động cho Thiên Chúa là giúp đỡ những người thiếu ăn thiếu mặc. Thánh Luca nhắc lại nhiều lần quan điểm đó và Amos cảnh cáo dân Do thái về lòng tự mãn vì của cải. Chúng ta không thể sống phè phỡn kẻo sẽ gặp cảnh khủng khiếp sau này, như dụ ngôn miêu tả. Chúa Giêsu không lên án giàu có, nhưng là lòng tự mãn không quan tâm đến người khác. Có thể là tuy chúng ta không giàu có, nhưng vẫn còn khả năng vô cảm trước những quằn quại của đồng loại, Chúa không muốn như vậy, nhưng hãy quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của nhau. Lazarô sống ở ngưỡng cửa nhà phú hộ. Ngày nay, qua tivi, radio, internet, cả thế giới ở ngay trước ngõ chúng ta. Tuy không quán xuyến được hết mọi sự, nhưng điều đó không phải là lý do để chúng ta thoái thác sự giúp đỡ kẻ khó nghèo.

Kinh nghiệm cho hay, những người giàu ít có tinh thần liên đới, họ sống ích kỷ, khép kín. Trái lại, các gia đình nghèo khó thường có nhiều tình làng nghĩa xóm hơn. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Nhưng người Mỹ chúng ta sống cao ngạo hơn người Phi Châu hoặc Á Châu. Họ có tinh thần cộng đồng nhiều hơn, biết chia sẻ của cải, văn hoá với đồng bào mình. Dầu tài sản chẳng có là bao nhưng họ sẵn sàng chăm sóc đến nhu cầu của tha nhân. Người Mỹ, từ tấm bé, đã được dạy cho biết sống cá nhân chủ nghĩa: xây dựng cuộc đời do chính bàn tay lao động của mình. Vì vậy, có câu thành ngữ rằng: “Những gì tôi kiếm được là do hai bàn tay này, hãy để người khác noi gương” (I have earned what I have, let others do the same).

Cho nên phúc âm hôm nay dạy mọi người phải liên đới với nhau sâu xa hơn. Kinh thánh không ngừng nhắc nhở tính cộng đồng nhân loại, dù rằng Thiên Chúa tuyên sấm cho một vài cá nhân, nhưng chính vì lợi ích của cả một dân tộc. Ngài ký kết giao ước không phải với cá nhân mà là với toàn thể tuyển dân Israel. Ông phú hộ và Lazarô là những thành viên của dân tộc đó. Có lẽ người giàu có quên mất chân lý này. Ông đã bẻ gẫy giao ước với Thiên Chúa. Nên ông phải chịu hậu quả đắng cay của việc ông làm. Chính nhà phú hộ, chứ không phải Thiên Chúa, đào hố ngăn cách giữa ông ta và Lazarô. Hố không từ đây sang đấy được. Thật là khủng khiếp.

Tóm lại, Thượng đế toàn năng, Đấng ban dụ ngôn hôm nay, ví tựa một hiền mẫu trong gia đình. Bà nói với con cái mình: “Này các con, tại sao những đứa sung túc lại có thể sống nhung lụa, bỏ quên anh chị em mình nghèo đói? Các con không biết rằng mình đều do một mẹ sinh ra? Hết thảy các con đều là ruột thịt của ta? Các con nên nhớ rằng những đứa ích kỷ chỉ sống cho mình trên những đống tiền, đống của chẳng thể tìm thấy hạnh phúc cho đến khi biết san sẻ cho những anh chị em nghèo đói khác. Lúc ấy gia đình không còn chia rẽ, sống hoà hợp thương yêu nhau, không chiến tranh, không thù hận. Các con sẽ là anh chị em với nhau như Ta đã tạo dựng nên các con”. Dụ ngôn thật sự đã mở lòng mở trí cho chúng ta nghe theo lời chân lý hằng sống. Tiếng nói của Bà Mẹ đầy quan tâm cho số phận nhân loại. Vì Bà thông tuệ mọi sự. Amen.

 

55. Xây dựng cầu nhân ái trong cộng đoàn

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano – Bản dịch của Lm Thomas Trần Ngọc Túy)

Phàm là người, nhất là tín hữu Chúa Kitô, ai cũng có bổn phận quan tâm đến đồng loại, nhất là những kẻ thân cận với mình. Nhưng ông nhà giàu trong dụ ngôn hôm nay hành động ngược lại. Phúc âm kể: “Ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình … Còn Lazarô mụt nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no, nhưng chẳng ai cho”. Nghe như Luca mô tả hiện tình của thế giới hôm nay, khoảng cách giàu nghèo, sang hèn xem ra rộng lớn hơn bao giờ hết, kể cả trong tôn giáo, tu viện, tầng lớp xã hội. Đó là lý do chủ thuyết cộng sản một thời đã thành công vượt bậc. Người ta đổ xô đi mua “Tư bản luận” để tìm huớng dẫn cho lý tưỡng đời mình. Chủ thuyết này rất có thể chiếm địa vị độc tôn nếu không có phân hoá ngay trong xã hội cộng sản.

Cho nên gần đây tôi quay sang đọc về phong trào Martin Luther King và tranh đấu cho nhân quyền ngay trong xã hội nước Mỹ vào các năm sáu mươi của thế kỷ trước. Những hình ảnh của thời gian ấy còn in đậm trong trí óc chúng ta và tiếp tục khơi dậy những khao khát đấu tranh cho công lý, hoà bình trên thế giới và trong từng xã hội nhân loại hôm nay. Giai đoạn 1960 quả là quan trọng, cần chúng ta suy nghĩ dưới ánh sáng phúc âm trong dụ ngôn người phú hộ và Lazarô.

Điều làm tôi cảm động là tính chất đời thường trong con người Martin Luther King Jr. Ông sợ hãi bạo lực đang dần vây quanh cá nhân và gia đình ông. Có nhiều lúc ông tính rời bỏ thành phố và thôi đấu tranh. Ông còn sợ bị rơi vào cô đơn, loại trừ, cho nên cố gắng tách mình ra khỏi phong trào. Nhưng dầu vậy ông vẫn sẵn sàng đối mặt với đám đông thù nghịch và cảnh sát. Nhiều lần bị bắt và bị giam tù.

Năm 1963, Martin King tham gia biểu tình ngồi lỳ ở Birmingham Alabama. Cảnh sát trưởng Bull O’Connon tuyên bố cùng thế giới rằng sẽ đối phó với các kẻ biểu tình bằng chó dữ và vòi rồng, bất chấp đàn bà, con trẻ, thanh niên, cụ già. King bị bắt ngày 12 tháng 4 năm 1963. các đồng chí của ông hiểu rõ cái giá của cô đơn và tù tội, họ đã lén gửi cho ông giấy bút để ông ghi chép giết thời gian. Nhờ vậy chúng ta có tác phẩm “Lá thư từ nhà tù Birmingham”. Ông gởi thơ cho cấp lãnh đạo Kitô và Do Thái giáo mà ông gọi là những kẻ thiện tâm. Những người này nói với ông rằng lúc này không phải là thời điểm biểu tình. Mọi sự đang được cải thiện. Xã hội đang nhiều công bằng, bình đẳng hơn.

Từ nhà tù, ông trả lời: “Tôi viết chẳng nhân danh ai cả cho những kẻ chẳng chịu đau khổ vì cái chi “. Ông ám chỉ ngôn sứ Amos trong Thánh Kinh: “Chúng rời bỏ làng mạc và bị đưa đi lưu đày, Đức Chúa phán như vậy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày xa quê hương xứ sở” (Bài đọc 1). King tiếp tục: “Thời giờ không trung lập. Sự việc không tự động trở nên tốt hơn chỉ bằng cách ngồi đợi chờ thay đổi. Thực tế những người chẳng bao giờ phải chịu đựng đau khổ có rất nhiều thời gian kiên nhẫn chở đợi … Trong khi bạn đang chịu các nỗi đau khổ thì không thể làm như thế. Bạn phải dùng thời gian để mà sáng tạo khi bạn còn thời gian. Tôi viết vì những người chẳng có thời gian cho những ai có vô số thời gian để mà chờ đợi”.

Lời văn thật cay đắng nhưng ý tưởng tuyệt vời. Ông cố gắng bắc cầu ngăn cách hố sâu giữa giầu nghèo, sang hèn, được đặc quyền và bị áp bức. Ông đòi hỏi công bằng tự do cho tất cả mọi người. Ông bắc cầu, bởi vì xã hội luôn đào bới những hố sâu. Tôi nghe nói đến chính sách “Một phòng học” trong các nhà trường, khi quỹ giáo dục đang thu hẹp lại. Kết quả của cuộc thử nghiệm là nó đập tan các rào cản giả tạo của tuổi tác tồn tại nhiều năm trong các trường học, lớp học chỉ có một phòng cho trẻ em thuộc nhiều lứa tuổi chơi đùa và giúp đỡ nhau tận tình. Em lớn giúp em bé tập đọc, tập viết, chơi trò chơi chung. Từ những “công trình nghệ thuật” trên bảng đen đến các que đếm, hộp màu, tranh vẽ phức tạp. Em nọ dạy em kia. Vui vẻ và tiến bộ nhanh. Bình thường các độ tuổi sống tách biệt. Nhưng nay các em lớn khởi sự coi sóc các em nhỏ, mặc quần áo, xỏ dép, tháo giầy, mặc sơmi, … Ở nhà các em ích kỷ và quậy phá, đến lớp ngoan ngoãn và hiền hậu hơn. Một giáo viên nhận xét: “Tôi chưa từng thấy gương mẫu liên đới nào đẹp như vậy”. Các hố ngăn cách đã được san bằng.

Liệu người lớn có học được bài học đó? Giáo hội cũng đang cố gắng thực hiện chương trình ấy. Người ta thành lập các giáo xứ ngoại biên thành phố, trong đó giáo dân giúp đỡ lẫn nhau xây nhà thương, trường học, không chỉ bằng tiền dâng cúng, nhưng cả bằng lao động chân tay thực sự. Một phụ nữ tham gia chương trình “vươn tới” đã nhận xét: “tôi từng kết bạn với những người mà trước đây tôi chưa bao giờ gặp trong đời. Và bạn biết sao không? Nó khiến tôi bớt thành kiến về người khác. Tôi trở nên dễ thông cảm khi nghe tin tức về các bạn hữu. Thực tế, tôi nhận được nhiều hơn là cho đi”.

Nếu chúng ta muốn cho con cháu điều tốt nhất, thì không chi bằng dậy dỗ chúng từ thuở ấu thơ. Chúng ta có những chương trình dày đặc quá đến độ chẳng còn thời gian đâu mà chăm sóc chúng. Vì vậy hố ngăn cách tuổi tác trong cuộc sống gia đình chẳng bao giờ được san bằng. Làm thế nào giáo dục chúng? Tốt nhất là về lòng nhân ái, thương cảm. Chúng ta gửi nó vào trường học, nhưng ở nhà trường, thầy cô giáo lại chú trọng đến kiến thức, đỗ đạt, chứ ít khi nói về cách sống đạo đức. Hẳn nào chúng ích kỷ, tàn nhẫn và lẻ loi. Các hố ngăn cách về nhân bản trong xã hội ngày nay càng bị đào sâu. Hơn nữa, dụ ngôn hôm nay cho thấy luôn có hố sâu. Ông phú hộ chết đi và mọi sự đảo ngược nhưng ông không làm chi sai trái, không ăn trôm ăn cắp, không bốc lột, chẳng làm chi bất công, còn tốt hơn chán vạn linh mục, tu sĩ “nhiệt thành”. Một vài người đọc xong dụ ngôn nói: “có lẽ ông đã làm điều xấu, nhưng người ta xóa khỏi Phúc âm”. Đó là nhận xét của não trạng tân thời. Còn hai ngàn năm qua bản văn vẫn vậy. Chẳng có chi bị lược bỏ cả. Đức Giêsu đã kể cho người Pharisêu trên đường lên Giêrusalem và do Thánh Kinh khởi hứng viết ra. Cho nên tôi ngạc nhiên liệu ông phú hộ có phải là người đương thời? Và đám tang của ông ra sao trong các thánh đường lộng lẫy của các giáo xứ? Chắc là hoành tráng lắm vì ông ta có phạm tội ác nào đâu, lại lắm tiền nhiều của, ngày ngày đãi tiệc các Pharisêu linh đình? Đồng tế, bài giảng hùng hồn, cử tọa gật đầu tán thưởng! Người ta sẽ nhớ đến ông mãi mãi. Còn người nghèo khó, mà tên cụ thể là Lazarô, thì chắc việc chôn cất đơn giản lắm, bó chiếu đem vào nghĩa trang công cộng của những kẻ vô gia cư.

Tuy nhiên, điều an ủi là: dụ ngôn không mô tả cuộc sống mai sau, không cho chúng ta biết thiên đàng trang trí ra sao, cờ xí, bàn ghế, tủ lạnh, máy điều hòa, máy sưởi, nhiệt độ… như những căn hộ của kẻ giàu có ở trần gian. Tôi chẳng mường tượng cảnh trớ trêu đó. Chỉ biết rằng các linh hồn ở đó và Thiên Chúa cũng có mặt. Đức Giêsu chỉ mặc khải rằng có thiên đàng và chúng ta sống trên ấy thế nào. Nghĩa là Ngài muốn thức tỉnh lương tâm nhân loại. Những chi chúng ta hành xử hiện tại mang một ý nghĩa và được cân nhắc ở đời sau, không có chi bị bỏ quên cả.

Đối với phú ông thì câu chuyên quá muộn, ông chết trước khi tỉnh ngộ. nhưng tác phẩm “Christmas Carol” (Bài hát Giáng sinh) của Charles Dickens, James Marley từ cõi chết trở về nói cho Ebeneze Scrooge rằng sẽ có ba con ma sẽ thăm hắn. Sau đêm gặp gỡ, Scrooge tỉnh lại và thay đổi nếp sống. Đó là ý nghĩa dụ ngôn hôm nay. Nó là một lời cảnh cáo yêu thương cho những ai ưa thích nhung lụa, tiện nghi, nó kêu gọi tỉnh nghộ, một hồi chuông cảnh báo, khiến chúng ta thức giấc khỏi mộng mị đời này. Tương lai chưa xảy ra và giống như Martin King viết từ nhà tù nhân danh “nobodies” to “somabodies”. Dụ ngôn cố gắng bắc những chiếc cầu thông cảm qua các thung lũng ích kỷ lạnh lùng mà thế giới thường gặp.

Chúng ta được nhắc nhở Thiên Chúa đi bước trước trong việc xây cầu và tiếp tục làm như vậy nơi Bí tích Thánh Thể. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ bẻ gãy mọi rào cản tội lỗi, chia rẽ chúng ta khỏi thiên đàng và nhân loại. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục phạm tội, tiếp tục đào hố ngăn cách. Tuy vậy, trước mặt Đức Chúa, chúng ta chỉ là Lazarô nghèo khó mang tên tuổi ông A anh B chị C bà D ngồi ở ngoài cổng thiên đàng, Đức Chúa xem thấy và tiếp tục xem thấy để trợ giúp chúng ta mỗi khi chúng ta giơ tay xin lương thực. Đúng như vậy, thời giáo hội sơ khai, các văn gia ngoại giáo ngạc nhiện khi thấy tín hữu hội họp để thờ phượng ông Giêsu. Già trẻ, lớn bé, giàu nghèo thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội, ăn uống trên cùng một bàn tiệc, không hề có kỳ thị. Các hố sâu xã hội mà thời đó người ta rất trân trọng đều được san bằng. Cho nên dụ ngôn kêu gọi chúng ta ngày nay biến cải nếp suy nghĩ của mình. Để chẳng còn hận thù, chiến tranh, tiêu diệt lẫn nhau vì tranh giành ảnh hưởng, giàu sang, phú quý và ông phú hộ không còn tồn tại trên thế gian này nữa. Mong lắm thay. Amen.

Lm. Jude Siciliano, OP. – Bản dịch của Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP

 

56. Lưu tâm đến những người nghèo khổ

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano – Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)

Có  nhiều thắc mắc liên quan đến dụ  ngôn hôm nay; những thắc mắc chưa được trả lời. Cũng có những chi tiết bất thường khiến chúng ta phải vò đầu bứt tai. Chẳng hạn như: tài sản của người giàu có kia từ đâu mà có? Phải chăng ông ta được thừa kế hay đã vất vả làm lụng cực nhọc mới có được sau bao năm vất vả, làm ngày học đêm để có công việc tốt? Hay ông ta đã khôn ngoan đầu tư để bây giờ hưởng lợi?

Những điều này không thấy dụ ngôn nói tới. Dụ ngôn chỉ nói rằng ông ta “đã nhận phần  phước” trong cuộc đời  ông ta. Dụ ngôn cũng không nói rằng Thiên Chúa là nguồn gốc sự giàu có của ông ta; rằng Thiên Chúa đã ban cho ông giàu có. Một số người nghĩ rằng giàu có là ân huệ từ Thiên Chúa. (Chẳng lẽ người nghèo thìn không được chúc phúc?) Dụ ngôn cũng không khẳng định ông nhà giàu là xấu. Ông ta chỉ là một thương gia biết khôn khéo đầu tư tiền của của mình để trở nên giàu có trong khi những người khác thì thua lỗ; ông sở hữu nhà xưởng và trả lương rẻ mạt cho công nhân, còn ông ngày càng giàu có. Ông đã làm gì mà dẫn đến tình trạng đau khổ sau này của ông? Chẳng gì hết. Đơn giản chỉ vì ông đã phớt lờ người đàn ông nghèo khổ ở ngay trước cửa nhà mình. Đã bao lần ông ta ra ngoài để làm ăn buôn bán hay vui chơi giải trí và trở về nhà sau những thương vụ hay sau những buổi tiệc tùng linh đình nhưng đã làm ngơ một kẻ đáng thương và những con chó ngay trước cửa nhà ông? Ông nhà giàu chẳng làm gì xấu, ít là chúng ta không thấy Tin mừng nhắc đến điều đó, nhưng chỉ vì ông đã phớt lờ người nghèo khổ và vì thế mà ông đã không thể vượt qua được vực thẳm của đời sau.

Lại một  vấn nạn nữa khiến ta khó hiểu. Tại sao Lazarô lại trở nên quá nghèo khổ như vậy? Phải chăng anh ta quá chây lười đến nỗi không thể tự mình vươn lên được? Hay anh ta sinh ra đã là một trong 95% những người nghèo khổ thời Chúa Giêsu? Hay anh ta bị tai nạn khi làm việc ngoài đồng nên giờ chẳng làm được việc gì để kiếm sống? Anh ta bị mù từ lúc sinh ra hay bị khuyết tật gì chăng? Hay anh ta bị bệnh tâm thần, hay còn gọi là “bị quỷ ám” và bị những người thân quen xua đuổi?

Cũng xin lưu ý rằng, câu chuyện cũng không nói Lazarô là một người đặc biệt tốt nên được ngồi vào lòng Abraham. Chúng ta không thể đọc thấy điều đó vì Đức Giêsu không hề kể cho chúng ta những đức tính của Lazarô. Có một người phụ nữ đưa cho tôi 5 đô la ở ngay của nhà thờ và nói: “Xin cha đưa tiền này cho người thực sự nghèo.” Thế là, bà ấy để mặc tôi làm thẩm phán quyết định xem ai xứng đáng nhận số tiền đó. Bà ấy muốn tôi phải phân biệt “những người nghèo bất xứng” và “những kẻ nghèo xứng đáng.” Giả như tôi đang ngoài đường, thực sự đói và lạnh, tôi nghĩ mình phải chôm chỉa cái gì đó để lấy tiền mua bánh mì cho tôi và cho gia đình của tôi. Phải chăng như thế thì bà ấy sẽ xem tôi như “người nghèo bất xứng”?

Dụ  ngôn không cho biết Lazarô  là người tốt hay xấu hay anh ta tuy “nghèo nhưng tốt” hoặc anh ta có tiền án tiền sự hay không. Lazarô chỉ là một người nghèo ngồi ở vệ cửa và bị lãng quên – một người nghèo vô hình. Anh ta chẳng có tấm áo choàng như của Herry Porter để mà tàng hình. Anh trở thành tàng hình đối với ông nhà giàu kia, người có nhiều việc cấp bách hơn để quan tâm. Lazarô chỉ là một phần trong cảnh thường ngày của ông nhà giàu kia. Có thể chúng ta cũng thấy và chẳng mấy chốc cũng chẳng để ý đến những người nghèo ở ngay bên cạnh chúng ta.

Câu chuyện còn cho chúng ta thấy đời sau của họ. Rất nhiều thay đổi đối với họ  – một thay đổi lớn lao. Lazarô  giờ đây rất thoải mái và  an toàn, trong “lòng tổ  phụ Abraham.” Đối với người Dothái, quý vị chẳng thể nào có được vị trí cao hơn thế. Ông nhà giàu giờ đây phải đau khổ. Nhưng có gì đó vẫn chưa thay đổi, nơi ông nhà giàu, ngay cả khi đang ở nơi khốn khổ ông vẫn muốn một đầy tớ hầu hạ mình. “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót tôi. Xin sai Lazarô nhúng ngón tay vô nước, nhỏ trên lưỡi tôi cho mát, vì ở đây tôi bị lửa thiêu đốt khổ lắm.” Ông ta vẫn là ông nhà giàu cũ, thậm chí không thèm nói trực tiếp với Lazarô. Cũng có một đấng khác không thay đổi: Thiên Chúa chưa từng thay đổi.

 Trong tất cả những dụ ngôn mà  Đức Giêsu kể cho chúng ta: người đàn bà nhào bột; người nông dân gieo giống; ông chủ thuê thợ  gặt, thì đây là dụ ngôn duy nhất mà nhân vật được đặt tên. Thật chẳng giống như thế giới của chúng ta; chúng ta biết tên của những người giàu có và nổi tiếng còn những người nghèo thì vô hình và vô danh. Thế nhưng, trong dụ ngôn này, người giàu có lại vô danh còn kẻ nghèo khó lại có một cái tên. Tên của anh ta là Lazarô – nghĩa là “người được Chúa giúp.” Vâng, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trong dụ ngôn rằng: Thiên Chúa không hề thay đổi. Thiên Chúa biết đến những người bị lãng quên. Chúa giữ những người không quan trọng như thể là quan trọng. Chúa sẽ an ủi những ai bị người đời bỏ rơi trong nghèo khổ. Như thấy trong dụ ngôn, Thiên Chúa biết tên của người nghèo và yêu thương họ. Cái chết của hai người này được mô tả thật khác nhau. Thiên thần đón Lazarô và đặt anh vào lòng Abraham; còn ông nhà giàu chỉ đơn giản “chết và được người ta đem chôn.” Đó là kết cục của đời ông ta.

Dụ  ngôn có thể gây sốc, như  đồng hồ báo thức  đánh thức người ta dậy. Dụ  ngôn hôm nay kể về  ông nhà giàu và Lazarô  ngụ ý thật quá rõ ràng, nó thức thỉnh chúng ta và cho chúng ta biết tấm lòng của Thiên Chúa ở nơi đâu. Dụ ngôn cho thấy rằng: giàu có và sung túc không phải là bằng chứng được Chúa chúc phúc. Cái mà chúng ta gọi là “đời sống tốt” và “ơn sủng” không hẳn chứng minh rằng chúng ta đã được Thiên Chúa đóng dấu chuẩn nhận. Hay nói cách khác, việc có nhiều của cải không thể chứng minh chúng ta  đang sống trong ân huệ của Thiên Chúa.

Qua dụ  ngôn, Đức Giêsu nói rằng: “Hãy tỉnh dậy  đi! Anh em vẫn còn thời gian. Để ý và hành động qua những gì mình thấy. Người nghèo ở ngay ngưỡng của nhà anh em, và đó là nơi dễ thấy, dễ nhìn và giúp đỡ những ai đang thiếu thốn, những người đang cần đến thời gian và sự quan tâm của anh em.” Đó có thể là người bạn đời đang giận dỗi mình, là cha mẹ đau ốm, là người hàng xóm có bà mẹ bị mắc chứng An-dây-mơ (Alzheimer) hay bị ung thư, là những trẻ em cần được giáo dục đức tin, những người được dòng Vinsơn Phaolô giúp đỡ, …

Trong thánh lễ này, chúng ta nài xin Chúa Giêsu xức dầu Thánh Thần của Người cho chúng ta một lần nữa. Chúng ta cầu xin cho mắt chúng ta mở ra để nhìn thấy những ai cần được giúp đỡ, có thể là chính người mà chúng ra đi qua mỗi ngày.

Những dạng thức thông tin mới, tivi, báo chí, hay Internet… mở rộng tầm nhìn của chúng ta. Nó mang người nghèo trên khắp thế giới đến ngay của nhà ta. Và vì thế mà chúng ta gom tiền để gửi cho Hội Cứu Tế Công Giáo giúp những nạn nhân bị lụt ở Pakistan, viết thư cho những nghị sĩ của chúng ta  để yêu cầu giúp đỡ những người đang chịu hậu quả của dịch Aids ở Châu Phi, nhất là những trẻ em lâm cảnh mồ côi vì cơn dịch này, dành một ngày thứ Bảy để cùng với tổ chức Nhà Ở & Nhân Quyền đi xây dựng nhà cửa cho những bà mẹ độc thân và con cái của họ, … Phương tiện truyền thông mang hình ảnh của Lazarô đến ngay của nhà ta, ngay trong phòng khách của chúng ta. Điều này đúng với hầu hết chúng ta. Thế nhưng vấn đề ở đây là: chúng ta có nhìn thấy hay không? Nếu thấy, chúng ta đã làm gì hay chưa?

Khoảng 2 năm trước, Đức Bênêđictô 16 đã thăm nước Mỹ và  nói về vấn nạn người nhập cư. Ngài nói, chính cách đối xử với người nhập cư sẽ quyết định tương lai của giáo hội Công giáo ở Châu Mỹ. Đức Giám mục cũng nói: một khi biên giới quốc gia được tôn trọng thì quyền của công nhân bản xứ hay nhập cư cũng phải được tôn trọng như vậy. Ngài cũng nhắc chúng ta phải thừa nhận rằng điều kiện có tuyệt vọng thế nào mới khiến người ta muốn đến đây. Quốc hội đã không thể đưa ra một cải cách mang tính toàn diện cho vấn đề di dân, vì thế mà vẫn chưa có giải thích hợp cho những người tìm kiếm cách vô vọng để vào nước Mỹ làm việc cách hợp pháp. Những chính sách hợp pháp cho vấn đề di dân sẽ giúp giảm luồng di dân bất hợp pháp.

Các  Đức Giám mục kêu gọi tôn trọng phẩm giá  con người và tính nguyên vẹn của gia đình. Không được tấn công, bắt giữ hay trục xuất họ, không được chia tách họ khỏi vợ/chồng và con cái họ. Gần đây, một phụ nữ bị đuổi khỏi nơi làm việc và bị trục xuất để lại cho hàng xóm một đứa con sáu tuổi và một đứa mới lên ba. Các Giám mục, lên tiếng thay cho giáo huấn của Giáo hội về việc tôn trọng sự sống, khẳng định rằng những chính sách nhập cư hầu như không tôn trọng sự sống và gia đình.

Chính sách này của nước nhà đi ngược lại với những gì Đức Thánh Cha khuyến khích chúng ta – đón nhận những người nhập cư như anh chị em của chúng ta. Có thể chúng ta không biết danh tánh họ, nhưng Thiên Chúa biết tên từng người trong số họ và đứng về phía kẻ khốn cùng. Ngài cũng muốn chúng ta làm như vậy. Dụ ngôn mời gọi chúng ta lưu tâm đến những ai đang ở ngay trước cửa nhà chúng ta, dù họ sống với chúng ta hay chỉ là hàng xóm láng giềng, dù họ là những anh chị em mà chúng ta chỉ gặp trên tivi hay qua màn hình laptop.

Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu  nguyện: “Xin xức dầu đôi tay và cặp mắt để chúng con có thể nhìn ra những người Chúa cần chúng con giúp họ.” Và rồi chúng ta hãy để mắt đến những Lazarô ngoài đời, những người Chúa gửi đến cho chúng ta giúp đỡ. Nơi họ, những kẻ đói, người trần truồng, đau yếu và tù đày, được tin mừng nhắc đến những chỗ khác, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và chắc chắn sẽ gặp Người trong Bí tích Thánh Thể.

 

 

57. Cuộc sống trần thế không phải là tất cả

(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)

Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.

1.- Ngữ cảnh

Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình, đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.

Những lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.

Vì không có một từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi trước nó.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);

2) Cuộc đối thoại (16,23-31):

  1. a) Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
  2. b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).

3.- Vài điểm chú giải

– mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.

– lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.

– Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.

– được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu “cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.

– anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).

– âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn thấy”. Đối với người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử, linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.

– ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”, tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.

– lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.

– Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.

– đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã định sẵn một vực thẳm”.

– Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em ông nhà giàu.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)

Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.

Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.

Các thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng nguyện ước.

Thế rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.

Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.

Bức tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).

* Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)

Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.

Đứng trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).

Các hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.

Tác giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.

Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham (của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không còn có thể thay đổi được nữa.

Chúng ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.

Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.

* Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)

Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người này đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”, Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.

Nhờ trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển […]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.

Ông nhà giàu không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!

+ Kết luận

Trong bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.

Đức Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.

Còn có một hướng suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự “không nghe” này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức Giêsu.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Hai người ở cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào “phát triển”, người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì! Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
  2. Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào, để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
  3. Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
  4. Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức thúc bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
  5. Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).

 

58. Chú giải của Noel Quesson

Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”

Đức Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng… giữa những người quá giàu, và những người quá nghèo.

Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu

Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El’azar có nghĩa là “Thiên Chúa – phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị… chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.

Thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta

Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.

Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.

Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những tòa nhà bằng bê-tông… Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất… Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn”

Đó đúng là điều Đức Giêsu đã nói:

Những mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?

Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”

Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.

Người nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.

Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!

Dĩ nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.

Ông Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’

Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 – 16,9-11).

Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:

  1. Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
  2. Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.

Chúng ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử mình ngay từ trần gian này”.

Hình phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đã trở thành “vực thẳm”.

Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.

Người nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã “mở lòng mình ra cho những người khác”. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!

Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này’

Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.

Ông Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’

Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).

Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’

Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)… sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)…

Nhưng Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ… sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ… bị giam hãm trong của cải của họ… Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.

Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.

Hãy nhìn kỹ lòng mình… Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?

Bạn có nghèo không?

 

home Mục lục Lưu trữ