Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 32

Tổng truy cập: 1376673

GHEN TƯƠNG

Ghen tương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ca dao Việt Nam có câu:

"Ớt nào mà ớt chẳng cay

Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng"

Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.

Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.

Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi". Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: "Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp". Bà thứ nhất thưa: "Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng". Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.

Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: "Không ăn thì hắt đổ đi". Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có."Trâu buộc ghét trâu ăn" là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.

Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.

Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: "Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi". Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo...

Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao chịu vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.

Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. "Thuyền càng to sóng càng lớn". Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.

 

10. Chúa Nhật 25 Thường Niên A

Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho nay không ai khác hơn là hình ảnh của chính Chúa Giêsu mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. Thiên Chúa không chỉ công bằng nhưng mà còn là Thiên Chúa xót thương.

Người chủ vườn nho thật hào phóng, ông ta vượt lên trên lẽ công bằng mà đúng hơn ông ta muốn thể hiện lòng xót thương. Ông ta xót thương cho số phận người ta, số phận của người thất nghiệp. Ông ta xót thương người ta nên đã thuê những người thợ. Vì xót thương nên ông ta quảng đại thuê luôn kẻ làm giờ thứ mười một, một người có thể gọi là thất nghiệp. Đối với người thất nghiệp này, ông chủ không hề tính toán so đo, không hề nghĩ ngợi lợi ích công việc cho mình, ông xót thương số phận người thất nghiệp, thương người thất nghiệp nhiều hơn, vì chiều nay rất có thể người thất nghiệp sẽ trở về nhà với đôi bàn tay trắng, không có tiền thì gia đình anh có thể sẽ chết đói, vợ con sẽ lên giường ngủ với cái bụng cồn cào vì không có tiền mua thức ăn.

Giống các người được thuê theo giá thoả thuận vào giờ thứ nhất, chúng ta cũng có lý không đồng ý với lòng xót thương của chủ vườn nho. Chúng ta có lý khi mình đã đến sớm và thoả thuận công việc và tiền công với ông chủ. Chúng ta có lý vì chúng ta đã vất vả đến sớm, nhọc nhằn vì công việc suốt ngày không mấy dễ dàng... chúng ta dễ so đo tính toán hơn thua với người thợ làm vào giờ thứ mười một, chúng ta không mấy thiện cảm cho những người bê trễ, lười biếng thậm chí ghét luôn với những người vào giờ chót ăn năn trở lại, vào giờ chết mới vào đạo, xin được rửa tội... lắm khi chúng ta vừa làm việc vừa than trách, kêu ca công việc nặng nhọc, vừa giữ đạo vừa phàn nàn Chúa, than thở các vị mục tử...không đáp ứng theo ý mình. Giữ đạo nhưng chúng ta dễ quên thậm chí không nhận ra Chúa đang thương chúng ta, nâng đỡ, che chở, chúc lành và thậm chí chúng ta quên ngay việc Chúa quá thương chúng ta nên tha thứ tội lỗi cho chúng ta, quên luôn không còn nhớ lỗi lầm dĩ vãng. Nếu chịu khó nhìn lại một chút, nhìn lại cuộc đời mình, chắc chắn chúng ta sẽ giật mình khi thấy mình giống người thợ làm vườn nho vào các giờ đầu tiên, đến sớm hễ đói thì được nuôi cơm sáng, có khi còn có bánh lót dạ thêm, rồi còn có càfê, có thuốc lá mà hưởng...Khi đến buổi trưa nếu đã làm cho chủ này thì ắt hẳn phải có được bữa cơm no nê, chưa kể hưởng thêm chế độ nước trà và bánh ngọt nữa chứ. Thế mà giống như những người này kêu ca, chúng ta ở trong Hội Thánh, hưởng nhờ ân sủng Chúa qua Hội Thánh, đón nhận nhiều thật nhiều hồng ân của Chúa, mỗi bí tích chúng ta lãnh nhận, mỗi Thánh lễ mà chúng ta cùng nhau cử hành, mọi phước lành của Chúa qua tay Mục tử mà chúng ta đang hưởng nhờ, tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà chúng ta đang thụ hưởng, sự nhiệt tình và lòng quảng đại của Hội Thánh trao ban cho chúng ta hằng ngày,..và còn rất rất nhiều thứ khác nữa mà chúng ta không kể xiết. Chúng ta có biết trân trọng và biết ơn về điều đó không?

Đang khi chúng ta có còn những người khác thì chưa chắc họ có được như chúng ta. Nếu một người ăn năn trở lại vào giờ chót, hay một người mới biết Chúa rồi chết, một người vừa được rửa tội rồi qua đời...thử hỏi xem họ được đón nhận như chúng ta không. Từ cái nhìn, lối suy nghĩ dẫn chúng ta đi đến một thái độ ứng xử thiếu tình thương, thiếu tình người, thiếu tình của Chúa yêu thương chúng ta.

Quả thật, chúng ta nhìn nhận lòng thương xót của ông chủ này vô bờ bến. Hẳn nhiên, nếu người ta làm ăn theo kiểu này thì thất bại là cái chắc, và việc "phá sản" công ty là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, lòng ông chủ thương xót người, lo cho mọi người bằng chứng là ông trả tiền công nhật đúng theo như đã thoả thuận, ông lo cho ăn uống chu đáo bằng chứng là họ không phàn nàn gì hết mà họ chỉ thắc mắc lòng thương xót của ông chủ đối với người thợ làm vào giờ chót.

Chúng ta cũng hiểu được phần nào ông chủ này là hình ảnh mà Chúa Giêsu muốn nói đến chínhn là Thiên Chúa. Thiên Chúa đối xử không giống con người nhưng Ngài đối xử theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Ngài. Vì thế chúng ta cũng không lạ gì Isaia đã nói về Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu".

Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều thì người làm một giờ cuối trong câu chuyện trên có đủ lương nuôi sống cả gia đình không, hay con cái của họ đang túng thiếu, nghèo đói,...Chính vì lòng thương xót, vì thông cảm hoàn cảnh nghèo đói của người ta, hơn nữa vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm vườn nho cho mình vào bất cứ giờ nào và trả tiền cho họ bằng nhau, người đến sau cũng bằng với người đến trước. Rõ ràng ông chủ không muốn đối xử với người ta theo tương quan mua bán, tính toán nhưng theo tương quan tình thươn và lòng nhân hậu. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta cũng hãy bắt chước để đối xử với đồng loại như chính ông đã đối xử.

Chúng ta không mong mình là người đến sau. Chúng ta đã là người đến trướcnên chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa và quyết tâm làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa và cũng biết thể hiện tình yêu, lòng thương xót và sự chia sẻ cho tha nhân của mình.

Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng cho họ. Người công chính đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu.

Thiên Chúa chúng ta thật là rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối nhỏ bé, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái họ có hơn mình hay cài mình không có, để bực tức ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt trên mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hoà tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.

Với những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì con tim nghèo nàn của chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có trái tim của Chúa, biết xót thương mọi người và sống yêu thương mọi người. Amen.

 

11. Ca tụng hay kêu trách

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)

Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.

1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”

Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.

Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?

2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)

Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!

Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.

Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.

Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.

3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”

Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:

Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.

Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:

Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.

Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.

* * *

Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).

 

12. Đấng nhân lành

"Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa"(Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.

Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.

Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)

Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?

Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ