Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1376536

GIÀU CÓ LÀ TỘI LỖI ?

GIÀU CÓ LÀ TỘI LỖI ? – JM. Lam Thy ĐVD

Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 16, 19-31) trình thuật dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”. Nhìn cảnh ông nhà giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh “Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, “trọng phú khinh bần” (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi “lên xe hoa” về âm phủ, ông nhà giàu mới “bừng con mắt dậy…” thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.

Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta mới chợt nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?

Trước hết, nói về những người giàu có. Con người sống trên đời, kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ (“Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” – Kiều; “tham vàng phụ nghĩa” – tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu”. Giàu như vậy, có tội là cái chắc.

Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc (cụ thể là phúc thứ nhất và phúc thứ năm trong “8 mối phúc”). Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, thì hẳn nhiên giàu có chưa phải là cái tội.

Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc cả đâu. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!

Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Ôi chao! Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày)”; rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?

Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum cái vại, đào cái ao cái hồ, xây cái bể cái máng, mới có nước mưa được. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN), đúng không nào? Còn câu trích trong kinh Magnificat, thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” cơ mà!

Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.

Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.

Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN26TN-C).

 

70. Suy Niệm Thánh Vịnh 145 – CN26TNC

(Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch)

1 Ha-lê-lui-a!

Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!

2 Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA,

sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

3 Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

4 Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

5 Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.

6 Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi

cùng muôn loài trong đó.

Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,

7 xử công minh cho người bị áp bức,

ban lương thực cho kẻ đói ăn.

CHÚA giải phóng những ai tù tội,

8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.

CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,

CHÚA yêu chuộng những người công chính.

9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,

Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,

nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.

10 CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,

Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.

Tôi sẽ ca tụng Chúa suốt cuộc đời…Đừng tin tưởng vào quyền thế chóng qua…con người mỏng giòn…Phải nương tựa vào Thiên Chúa, Tạo Hóa, trung tín, cứu độ, từ tâm, bạn hữu của người bé mọn. Ngài hiển trị muôn đời!

Cùng Đọc Với Dân Ítraen

Đây là một Thánh Thi ca ngợi vương quyền Thiên Chúa. Từ Thánh vịnh 145 cho đến Thánh vịnh cuối cùng 150, ta có một loạt Thánh vịnh được gọi là Hallel cuối cùng, bởi vì mỗi một trong sáu Thánh vịnh này đều mở đầu và kết thúc bằng Alleluia. Cũng thế, sách Thánh vịnh kết thúc bằng lời chúc tụng. Hãy lưu ý từ Alleluia, trong tiếng Do Thái có nghĩa là Hãy chúc tụng Thiên Chúa.

Tác giả Thánh vịnh ca ngợi tình yêu Chúa với một giọng điệu hân hoan bằng cách lập lại chín lần cùng một cấu trúc văn phạm được gọi là ‘động tính từ ca tụng’.

-Đấng tạo thành trời đất …

-Đấng giữ lòng trung tín …

-Đấng xử công minh cho người bị áp bức…

-Đấng ban lương thực cho kẻ đói ăn…

-Đấng giải phóng những ai tù tội…

-Đấng mở mắt cho kẻ mù loà…

-Đấng cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên…

-Đấng yêu chuộng những người công chính…

-Đấng phù trợ những khách ngoại kiều… nâng đỡ cô nhi quả phụ.

Ta hình dung như hai ca đoàn đang đối đáp nhau. Có thể xem đây như một hình thức kinh cầu của những người đau khổ mà Thiên Chúa nâng đỡ: người bị áp bức, kẻ đói ăn, người tù tội, người mù lòa, người bị dìm xuống, khách ngoại kiều, cô nhi quả phụ…Mọi đau khổ trên đời này đều kéo lòng thương xót của Thiên Chúa xuống trên con người.

Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Chẳng chút khó khăn nào để đặt Thánh vịnh này trên môi miệng của Đức Giêsu. Ta tưởng như đang nghe những lời tin mừng.

Đức Giêsu, thay vì cậy dựa vào những kẻ quyền thế trần gian, Ngài lại cậy trông vào Chúa Cha để đứng về phía những người nghèo hèn, từ hang đá cho đến thập giá. Ngài thực hiện nhiều phép lạ để hoàn tất lời kinh nguyện này: hóa bánh ra nhiều để nuôi những người đói, mở mắt kẻ mù, giải thoát tù nhân thoát khỏi tội lỗi…

Trong phòng tiệc thời thiên sai, cũng chính những kẻ nghèo, tàn tật, thấp hèn, mù lòa là những khách mời ưu tiên. Cũng một cách thức như trong Thánh vịnh này, Đức Giêsu đã tuyên bố những mối phúc: “Phúc cho những ai trông cậy vào Chúa…Phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa…” Và đối nghịch lại với những mối phúc này là lời chúc dữ: Ngài phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân…Vô phúc cho những kẻ giàu vì họ đã được no thỏa. (Lc 6,24). Đức Giêsu thường lập lại với Thánh vịnh này: cuộc sống vật chất dẫn đến hư không. Hãy nhớ hình ảnh người chủ điền giàu có muốn nới rộng kho lẫm. “Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan”.

Phụng Vụ đã chọn Thánh vịnh 145 và đoạn Tin Mừng theo thánh Mátcô (Mc 12,38-44) để đọc trong ngày Chúa nhật này, vì có liên quan đến hình ảnh bà góa nghèo mà Đức Giêsu muốn nêu lên…và cũng vì hình ảnh của các luật sĩ, những kẻ quyền thế của thời đại, nuốt trửng tài sản của các bà góa, trong khi Thiên Chúa nâng đỡ góa phụ và cô nhi.

Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Alleluia! Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA, ta có biết thật ca tụng là gì không? Ta có biết tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm cho ta vì yêu không?

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai…Đúng vậy, làm sao lại cậy dựa vào một con người, xuất phát từ đất bụi, con của Ađam được dựng nên từ bụi đất. Cho dù có được trọng vọng, cao cả, thông minh, một ngày kia nó cũng sẽ trở về bụi đất. Chẳng có quá lời đâu…cũng chẳng bi quan đâu! Đó là sự thật! Duy mình Thiên Chúa mới có thể cứu thoát chúng ta. “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)

Phúc thay người trông cậy Chúa…Lạy Chúa, xin ban cho con hạnh phúc đích thực. Xin cho con tin rằng chỉ có Chúa là hạnh phúc bền vững, không gì có thể làm nó hư mất đi và làm cho nó nhạt mờ được.

Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó… Thỉnh thoảng ta nên nhắm mắt lại và gợi lên trong trí cái vũ trụ vĩ đại được tạo dựng. Thật rất đẹp và rất hùng vĩ! Một đêm tối đẹp trời đầy sao, hãy nhìn các ngôi sao và nghĩ đến các giải thiên hà. Hãy nghĩ đến cả cuộc sống chen chúc, đến hằng tỉ hằng tỉ chủng loại đang sống trên mặt đất và sâu trong lòng đại dương!

Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời… Ngay sau khi gợi lên sức mạnh tạo thành, tác giả Thánh vịnh, không hề báo trước, một cách tự nhiên chuyển ngay sang chủ đề lòng trung tín và yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa vĩ đại của vũ trụ, ta nghĩ rằng Ngài rất siêu vượt, xa vời. Đó chính là điều các triết gia đã làm. Nhưng hãy nghe, Ngài còn ưu tiên quan tâm đến những kẻ bé mọn, những kẻ bất hạnh đau khổ. Ngài dành mọi phúc lành cho họ: xử công minh cho người bị áp bức…/ban lương thực cho kẻ đói ăn…/ giải phóng những ai tù tội…/mở mắt cho kẻ mù loà…/cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên…/yêu chuộng những người công chính…/phù trợ những khách ngoại kiều…/nâng đỡ cô nhi quả phụ. Còn những người kiêu căng, tự mãn sẽ nhận lời chúc dữ: Ngài không thèm quan tâm đến họ, và phá vỡ mưu đồ của họ… họ sẽ ra tro bụi bởi vì họ đã chối từ hạnh phúc vĩnh cửu dành cho họ.

Nếu Thiên Chúa đứng về bên những kẻ bất hạnh…vậy bạn, bạn phải làm gì? Bảo vệ, che chở, chữa lành, nâng dậy, nâng đỡ. Những công việc này Thiên Chúa giao cho con người. Vâng, chính con người tro bụi đáng thương ấy lại có được vinh dự bắt chước Thiên Chúa. Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành. Và phía sau những từ ngữ của Thánh vịnh, là lời khuyến khích động viên mọi kitô hữu dấn thân cho sự phát triển, cho sự phục vụ con người, tập thể, xã hội. CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở… Xin cho nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất, trong các cộng đoàn nhân loại mà tôi đang là thành viên.

Noel Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I

 

71. Lòng ích kỷ – Giuse Hồng Ân

Ích kỷ là loại bệnh nan y, khó có thể chữa trị được bởi vì: người ích kỷ có bao giờ biết mình ích kỷ. Cái gì cũng nghĩ về mình, lo cho mình, vơ vào mình, họ không chỉ vơ vật chất, mà còn vơ cả phần chân lý về mình nữa. Thực chất người ích kỷ còn là người “bảo thủ”, toan tính thiển cận, thấy cái lợi trước mắt là lao vào như con thiêu thân để giành giật. Ích kỷ còn là nguồn gốc của mọi giống tội khác như: tham lam, kiêu căng, lật lọng, tráo trở, độc đoán, khinh bỉ, coi thường người khác…

Một trong muôn vàn tật xấu của người ích kỷ, là không bao giờ biết quan tâm đến người khác. Dụ ngôn “nhà phú hộ và người hành khất La-da-rô” Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng hôm nay, cho ta thấy cảnh đau lòng đó: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16, 19-21). Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch cảnh ngay trong cuộc sống trần gian: Ông nhà giàu xử dụng một gia tài kếch xù. Ông ăn mặc sang trọng với gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn La-da-rô nghèo khó thì sống trong tình trạng cùng cực, là một người ăn mày, một tên hành khất kém may mắn. Ladarô chỉ có một ước mơ rất đơn giản là được ăn những gì rơi rớt từ bàn ăn của người giàu kia mà chẳng được. Sức khoẻ của La-da-rô thật là tồi tệ, đời sống thật mong manh, không có gì ăn, nên không đủ sức đề kháng, ung nhọt phát triển, bệnh tật gia tăng.

Tuy nhiên, còn có một điểm chung, đó là cả người giàu và người nghèo đều phải chết. “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).

Sau đời sống tại thế của kẻ giàu và người nghèo, Tin Mừng nói đến cuộc sống của họ bên kia thế giới. Sau khi từ trần, vẫn là nghịch cảnh, nhưng đảo ngược hoàn toàn. Lần này người giàu ở chỗ tối tăm, đau khổ khốn cùng, thay vì chỗ sang trọng nơi bàn tiệc. Người nghèo ngồi chỗ nhất, được hạnh phúc bên tổ phụ Abraham.

Người giàu ở trần gian, thì ngày ngày yến tiệc linh đình, nay phải xin một giọt nước. Người nghèo thay vì ngồi lê lết trước cửa ông nhà giàu để ăn mày, nay được ngồi nơi mát mẻ, thanh nhàn vui vẻ hạnh phúc.

Tội của người giàu trong Tin mừng không phải vì ông ta đánh đuổi, lăng mạ người nghèo. Ông ta không trộm cắp, không cướp của giết người, không tham ô hối lộ, không bóc lột người nghèo, cũng không buôn gian bán lận… Nhưng là tội ích kỷ chỉ lo cho bản thân, hưởng thụ của cải mình, mà chẳng màng chi đến anh em nghèo đói xung quanh, thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ của đồng loại. Người giàu tự khép kín trong thế giới của riêng ông để hưởng thụ. Ông đã trở nên mù quáng trước lề luật của Thiên Chúa và trước sự hiện diện của người nghèo khổ. Có lẽ, mấy con chó còn tử tế với La-da-rô hơn ông nhà giàu (x. Lc 16, 21). Vì ích kỷ nên nhà phú hộ đã hoàn toàn xa cách với La-da-rô. Ông tự tạo cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Vực thẳm đó ngăn cách cuộc sống của hai người ngay tại trần gian và kéo dài mãi đến tận thế giới bên kia, như lời tổ Phụ Abraham nói: “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16, 26).

Thế giới ngày nay cũng không thiếu những La-da-rô nghèo khổ đang lê lết trước cổng nhà ta, chờ được chúng ta bố thí chút cơm thừa canh cặn. Vậy mà nhiều khi chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ, vẫn bưng tai bịt mắt, ung dung vui hưởng những của cải mà Chúa đã ban cho ta, không màng chi đến nỗi thống khổ của đồng loại. Phải chăng chúng ta cũng đang tạo cho mình một vực thẳm ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa sang và hèn, giữa nông thôn và thành thị. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 1979, ĐTC Gioan-Phaolô II đã nói: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải mà Chúa ban cho chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó người hành khất “La-da-rô” của thế kỷ vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ở cửa…. Ông nhà giàu và Ladaro nghèo khổ, cả hai đều là người, đều được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, đều được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá rất đắt là giá máu quý báu mà Ngài đã đổ ra…. Chúng ta đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc”.

Mẹ Têrêxa thì nói: “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu, sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến”.

Mỗi người trong chúng ta hãy đứng lên ra khỏi bàn tiệc, cởi bỏ những trang phục quá sang trọng, không cần thiết, vì nó làm cho ta xa cách Chúa và xa lạ với những người nghèo. Chúng ta hãy nhìn ra cổng để thấy và đến gần những “La-da-rô” của thời đại, đang ngồi lê trước cổng nhà ta. Chúng ta hãy đưa tay ra chia sẻ, giúp đỡ để xoa dịu nỗi đau của đồng loại, thu nhỏ vực thẳm ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Để chúng ta không phải chịu cực hình trong âm phủ, không phải ngửa tay xin một giọt nước để làm mát. Thiên Chúa rất vui lòng khi thấy con cái của Ngài sống tình liên đới, biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận từ nơi Ngài như thế, để Ngài thưởng công cho họ. Vì khi chúng ta chia sẻ cho anh em nghèo khổ, là chúng ta làm cho chính Chúa vậy (x. Mt 25, 40).

Của cải là mối nguy hiểm lớn cho con người ở mọi thời và mọi nơi. Vì của cải là con dao hai lưỡi, nếu biết sử dụng thì của cải là đầy tớ tốt phục vụ cho chính mình cùng đồng loại ở đời này và là phương tiện đưa ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Còn không biết sử dụng thì của cải là ông chủ tồi, đời này huỷ hoại cuộc sống ta trong những cuộc chè chén say sưa, ăn chơi vô độ, bán rẻ lương tâm, huỷ hoại nhân cách, xa tránh anh em. Nó còn ngăn cản chúng ta trên đường tiến về Nước Trời để vui hưởng cuộc sống vĩnh cửu với Chúa.

Lạy Chúa, chúng con là những con người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nghĩ về mình, vơ vào mình để hưởng thụ, mà không màng chi đến nỗi thống khổ của anh em con. Chúng con cũng đang tự xây cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa giàu và nghèo. Làm cho chúng con xa cách, không thể đến được với Thiên Chúa và tha nhân. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con biết lấp đi vực thẳm ngăn cách đó, cho chúng con đến được gần Chúa và gần anh em nghèo khổ. Làm cho cuộc sống mai sau chúng con cũng được vào nơi mát mẻ bên cạnh tổ Phụ Abraham và trước nhan Thiên Chúa.

72. Rửng rưng có phải là một tội ác?

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Trong đời sống xã hội hiện nay, con người ngày càng có xu hướng sống khép kín, chỉ biết lo cho bản thân và ít quan tâm đến những người chung quanh. Não trạng ‘sống chết mặc bay’ ngày càng trở nên phổ biến. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trapist, đã viết một cuốn sách tựa đề ‘Không ai là một hòn đảo’ (No man is an island), trong đó Ngài đả kích thái độ sống ích kỷ và hẹp hòi này. Bài Tin mừng hôm nay với dụ ngôn về ‘Người phú hộ và anh Lazarô’ cũng nhắc nhở chúng ta phải biết mở rộng cỏi lòng đến với tha nhân, nhất là những người cùng khổ và bất hạnh đang sống quanh ta. Một triết gia đã nói: “Rửng rưng là một tội ác”. Vậy thái độ khép kín và hẹp hòi mà chúng ta thường mắc phải, có phải là một tội ác hay không? Các bài đọc lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.

Giàu và nghèo dưới ánh sáng Tin mừng.

Xã hội nào cũng có những người giàu sang phú quý, sống bên cạnh những người cơ cực và nghèo nàn. Sự cách biệt giàu nghèo càng lớn, những tội phạm càng dễ xảy ra. Vào thời Chúa Giêsu, tình trạng xã hội cũng tương tự như thế. Chúa Giêsu đã từng mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc khi Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc Thiên Chúa hoặc tiền bạc”. Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn: “Người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Ngược lại, Chúa đề cao tinh thần nghèo khó như mối phúc đầu tiên. Tin mừng Giáng sinh được loan báo trước tiên cho các mục đồng, là những đứa bé chăn trâu khố rách áo ôm, chắc chắn chẳng có một xu dính túi. Chúa còn khen ngợi người đàn bà góa nghèo chỉ có hai xu để bỏ vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Kinh Thánh luôn đề cao những người nghèo của Giavê (anawim), bởi vì họ luôn được Thiên Chúa yêu thương và bênh vực.

Dụ ngôn được đọc lên trong phụng vụ hôm nay cũng nên bật hai hình thái tương phản trong xã hội: Giàu và Nghèo. Người phú hộ thì rất giầu, suốt ngày yến tiệc linh đình, còn Lazarô lại quá nghèo, nghèo đến mức độ thèm những mẩu bánh vụn từ bàn rớt xuống để ăn cho no. Sau khi chết, số phận của họ hoàn toàn đảo ngược lại. Tên nhà giàu thì bị đầy xuống âm phủ, còn Lazarô được đem vào lòng tổ phụ Abraham. Như vậy có phải sự giàu có tự nó đã là một tội, còn sự cùng cực đương nhiên bảo đảm cho phần thưởng nước trời mai sau ? Chắc chắn không phải như thế. Có nhiều người sống bần cùng và rất túng thiếu, nhưng có thể do lười biếng hoặc do khờ khạo không biết cách làm ăn. Đó là cái nghèo về kinh tế chỉ thuần mang chiều kích xã hội, lắm khi là một tai họa chứ không phải là mối phúc như Chúa Giêsu đề cao. Ngược lại có những người rất giàu nhưng đã sống với một trái tim quảng đại. Ông bà Martin Guérin, song thân của Thánh nữ Têrêsa là một ví dụ. Giáo hội đã phong thánh để các Ngài trở nên tấm gương sáng cho chúng ta bắt chước. Thế thì tại sao tên phú hộ sau khi chết lại bị đầy xuống âm phủ, còn Lazarô khốn khổ lại được vui hưởng hạnh phúc trong lòng Abraham ?

Rửng rưng đáng bị kết án.

Gã phú hộ trong câu chuyện Tin mừng hôm nay là một tay giàu sụ, tiền dư của để ê hề. Anh ta có nhiều của cải, có thể đang sở hữu một gia tài kếch xù do cha ông để lại. Hoặc có thể vì anh ta biết cách làm ăn với những đồng tiền chính đáng, không phải do gian manh hay luồn lẹo. Anh ta cũng chẳng ăn trộm ăn cắp của ai, không lừa đảo, mánh mung hoặc tham nhũng. Xét một cách khách quan, anh ta khá liêm chính. Nhưng anh ta bị phạt trong hỏa ngục vì đã sống trong tình trạng tội lỗi rất nặng nề. Tội sờ sờ trước mắt là anh ta nhắm mắt làm ngơ trước sự khốn cùng của cận nhân đang sống ngay cạnh mình. Anh ta chỉ biết sống hưởng thụ cách ích kỷ, ngày ngày chè chén say sưa, ăn uống linh đình và chẳng thèm nghĩ đến ai. Trái tim của anh ta đã hoàn toàn xơ cứng. Anh ta sống khép kín và quá vô cảm. Một triết gia đã nói: “Chỉ có loài vật mới dã tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại mà chăm chút cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không”. Hiểu như thế, tên phú hộ này đã mất hẳn tính người. Anh ta hành xử như một con thú và đương nhiên anh ta rơi vào tình trạng tội lỗi khủng khiếp.

Chúa không bao giờ kết án người giàu, chỉ vì họ có nhiều của cải. Ngài chỉ gay gắt chỉ trích những ai đang sống với một tấm lòng keo kiệt, bám chặt vào của cải vật chất một cách ích kỷ và sống cho riêng mình. Tội của tên phú hộ chính là ở điểm này.

Cũng vậy trong bài đọc 1, ngôn sứ Amos mạnh mẽ cảnh cáo những người giàu có nhưng chỉ biết hưởng thụ. “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng… Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng… nhưng chẳng thấy đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ. Vì thế chúng sẽ bị lưu đầy (Am 6,4-7).

Chủ nghĩa hưởng thụ dẫn đến tội ác.

Nhiều người vẫn còn nhớ một vụ án xảy ra cách đây khá lâu tại Sài Gòn, làm xôn xao dư luận.Vào một buổi sáng, người ta phát hiện một phụ nữ bị giết chết và xác cô ta bị chặt ra làm nhiều mảnh để phi tang. Chính quyền không khó tìm ra thủ phạm vì chỉ ngay chiều hôm ấy, kẻ sát nhân tên là Nguyễn Trung Nhiên, một kỹ sư trẻ tài năng mới ra trường, đã đến đồn công an tự thú. Bắt đầu đi làm và có nhiều tiền, anh ta dần dần bị tha hóa và biến chất. Anh chàng quen một cô gái và 2 người thuê nhà trọ để sống với nhau như tình nhân. Chỉ một thời gian ngắn, anh ta đâm chán cô nàng. Sau một trận gây gỗ, anh túm lấy cô ta và bóp cổ cho đến chết. Sợ người khác phát hiện, anh ta thản nhiên mổ bụng cô gái, vất hết ruột gan ném vào nhà vệ sinh và chặt xác chết ra làm nhiều khúc. Dư luận xã hội rất kinh hoàng trước sự việc xảy ra. Trong một lần tĩnh tâm linh mục của giáo phận, có một Cha xứ nọ đang phụ trách một giáo xứ khá lớn đã thú nhận với các Cha rằng kẻ giết người chính là giáo dân của Ngài. Trước kia anh ta từng là một giáo lý viên rất tốt lành và hăng say. Anh ta cũng tham gia trong ca đoàn và khá tích cực trong công việc chung. Nhưng từ khi đi làm có tiền, anh ta rơi dần vào tình trạng sa đọa, đi nhà thờ thưa thớt dần và rồi hầu như mất hẳn đức tin. Hệ quả tất yếu, cuối cùng tội ác đã xảy ra. Nguyên do chính cũng vì lối sống hưởng thụ cách ích kỷ.

Kết luận:

Lời Chúa hôm nay giúp lay động lương tâm mỗi người. Câu chuyện về người phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ vẫn còn mang tính thời sự để chúng ta suy nghĩ và nhìn vào cuộc sống của mình. Ông phú hộ đã nói với Abraham: “Xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn 5 anh em nữa. Xin đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào cực hình như con.” Năm anh em đó có thể là bạn, là tôi, là những người còn đang sống hôm nay. Abraham đáp: “Moise và các ngôn sứ mà họ không chịu nghe, thì người chết sống lại họ cũng chẳng tin”. Moisê và các ngôn sứ là hình  tượng gợi lên sự nhắc nhở mà Chúa Giêsu gửi đến chúng ta qua nhiều dạng thức, đặc biệt qua sứ điệp lời Chúa hôm nay.

 

73. Hố ngăn cách giầu nghèo

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Chương 16 câu 26 của Tin Mừng Lu-ca khảng định: có một cái hố ngăn cách “Giữa chúng ta đây và các anh có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các anh cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta cũng không được”. Một trong các mục tiêu của dụ nôn ‘ông phú hộ sang giầu và tên La-da-rô nghèo khổ’ là: cho thấy cái hố này sâu tới mức nào. Cái hố ngăn cách giầu nghèo được đề cập tới trong câu truyện dụ ngôn này không thể được hiểu theo định hướng kinh tế xã hội, cách mạng chính trị, ý thức hệ, thậm chí theo nội dung luân lý đạo đức. Ở đây liên tục với nội dung trước đó của chương 16, Lu-ca muốn diễn đạt ý nghĩa Tin Mừng là điều duy nhất Đức Giê-su muốn rao giảng.

Khác hẳn với luật lệ của Cựu Ước nặng tính luân lý và đạo đức, trong đó quan trọng nhất là việc trung thành giữ luật, thì theo Tin Mừng Tân Ước, mạc khải tình yêu nhân hậu tha thứ của Thiên Chúa mới là điều quan trọng nhất cần phải là được đón nhận. Theo Cựu Ước, thiên đàng – hỏa ngục là phần thưởng – hình phạt dành cho người tốt / kẻ xấu, người trung thành giữ luật / kẻ bất trung phá luật, người đạo đức / kẻ khô khan, người thánh thiện / phường tội lỗi. Còn theo Tân Ước, được vào Nước Trời là được hưởng trọn tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa từ nhân (‘La-da-rô trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham’ là một điển hình), sẽ dành cho những ai đã từng biết đón nhận khi còn sống; còn bị loại ra khỏi Vương Quốc tình yêu đó (bị cực hình, bị lửa thiêu đốt) là số phận của những ai khi sống đã từ chối đón nhận tình yêu tha thứ này. Khi Đức Giê-su tuyên bố: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của anh em… khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:20.25) chắc hẳn Người đang công bố nội dung Tin Mừng này.

Như vậy, cái vực thẳm lớn vĩnh viễn ngăn cách việc tiếp nhận hay khước từ Tin Mừng cứu độ chỉ có thể xuất hiện sau khi chết; ‘người nghèo này chết…Ông nhà giầu cũng chết’; thế nhưng, ngay từ cuộc sống trần thế, nó đã khởi sự được hình thành; ‘người nghèo khó… nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no’. Cái hố ngăn cách của tiếp nhận hay chối từ Tin Mừng cứu độ được hình thành và phát triển dựa vào định hướng trái chiều giữa giầu và nghèo trong nội dung Tin Mừng. Đó là lý do khiến Đức Giê-su nhiều lần lên tiếng cảnh giác sự giầu sang đồng thời tôn vinh nghèo khó, Người hoàn toàn trung thành với viễn cảnh đón nhận Vương Quốc tình yêu cứu độ.

Trong dụ ngôn, nếu ông nhà giầu chỉ ‘mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình’, thì đâu ông có làm gì nên tội để đáng bị cực hình thiêu đốt; cũng vậy, nếu La-da-rô chỉ ‘nghèo khó… mụn nhọt đầy mình…’ thì đâu có làm nên công trạng gì để đáng được ‘thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Chi tiết mô tả ông nhà giầu gợi ta nhớ đến cái cảnh ‘được no nê’thỏa mãn đâu cần được ai thương xót; còn người nghèo khó ‘thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống… chó đến liếm ghẻ chốc’ chính là thái độ mong đợi, cầu xin được xót thương. Đối với Tin Mừng, giá trị đích thực của giầu nghèo là ở chỗ đó: sống giầu dễ đưa tới tự mãn để không cần tới lòng xót thương (khốn cho), còn sống nghèo tạo điều kiện tự nhiên để mở ra đón nhận lòng thương xót (phúc thay). Nếu cứ tiếp tục ‘sống giầu’ như thế (trường hợp ông nhà giầu), và nếu cứ tiếp tục ‘sống nghèo’ như thế (trường hợp La-da-rô) thì việc bị loại khỏi hay được đón nhận vĩnh viễn vào Nước Trời sau khi chết sẽ chỉ là chuyện đương nhiên. Lúc đó thì cái hố ngăn cách giầu nghèo sẽ không còn gì có thể lấp đầy được (vẫn theo nghĩa Tin Mừng); “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.

Giầu – nghèo, trong học thuyết Tin Mừng của Đức Giê-su, chỉ là hoàn cảnh / điều kiện nghịch hay thuận để đón lấy Nước Trời cứu độ; do đó “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Đức Giê-su sống thân phận nghèo khó như ‘con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có lấy hòn đá gối đầu’ là để Người rộng mở hoàn toàn cho Vương quốc của Cha. Và Người kêu gọi bất cứ ai muốn theo Người cũng hãy “bán đi hết những gì mình có và bố thí cho kẻ khó…” để có điều kiện thuận lợi mở tâm hồn đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Ki-tô hữu, vì là người của Tin Mừng, phải luôn cảnh giác với cuộc sống giầu sang vì mối nguy cơ nó tiềm ẩn, nhưng phải vui mừng ôm ấp sự nghèo hèn đói khát chính vì thuận lợi Tin Mừng nó cống hiến. Nếu họ có giầu, thì chí ít họ cũng biết nhận ra ‘con đã nhận được phần phước của con’, tức là hồng ân của lòng từ bi Chúa, để biết khiêm tốn tạ ơn; còn nếu nghèo khổ thì ‘suốt một đời chịu toàn những bất hạnh… thì được an ủi nơi đây’, để vui mừng và hy vọng.

Đó chính là Tin Mừng đích thực đang được rao giảng cho những người nghèo khó!

Lạy Thiên Chúa là Cha! Đức Giê-su đã dạy chúng con cầu nguyện cùng Cha. Những điều con cầu xin Cha có thể là vô vàn và rất khác nhau vì con có quá nhiều nhu cầu cả về phần xác lẫn phần hồn, tuy nhiên con biết rất rõ: điều chính yếu trong cầu nguyện chính là tư thế khó nghèo của con. Xin Cha nhận lời cầu nguyện của con, không phải để thỏa mãn những điều con xin, nhưng là chấp nhận thân phận đớn hèn con mong hướng về Cha. Và xin Cha gìn giữ con luôn mãi trong sự nghèo hèn của mình để không ngừng hướng lòng con về tình nhân ái Cha. Amen.

home Mục lục Lưu trữ