Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 29

Tổng truy cập: 1376696

GIÀU CÓ VÀ NGHÈO KHÓ

GIÀU CÓ VÀ NGHÈO KHÓ – McCarthy

Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.

Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.

Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.

Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.

Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.

Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.

– Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.

– Phải. Ông ta đáp.

– Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?

– Nói thật với chú bé là tôi không biết.

– Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?

– Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.

– Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?

– Đúng thế!

– Tôi ước gì tôi…

Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp “Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế”.

Và ông ta kết luận: “Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang hơn mình… Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.

Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.

Ông không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.

Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).

Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”. “Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi”. Câu trả lời là như thế.

 

29. Bác ái bắt đầu từ nhà mình – McCarthy

Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.

Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.

Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?

Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.

Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.

Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.

Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.

“Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.

Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.

– Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.

– Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi”.

Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.

Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.

Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.

 

30. Chú giải của R. Gutzwiller

KHÓ NGHÈO và SANG GIÀU.

Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.

Ở đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói ‘Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai thèm cho’. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.

Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.

Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.

Hai nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ.

Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.

Cho nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng Abraham cũng thế…

Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.

Giải thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.

Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, ‘đã làm được một cái gì’ và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.

Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.

‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng’. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài… Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.

Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.

 

31. Thế giới cuả tình yêu

“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”

Chương 16 của Tin Mừng Luca được lồng vào giữa hai dụ ngôn mà mọi người nhất là người thừa tiền lắm của phải suy niệm nằm lòng. Đó là dụ ngôn người quản lý bất lương (1-13) được đọc Chúa nhật tuần trước, và dụ ngôn về Ladarô và người phú hộ (19-31) của Chúa nhật hôm nay.

Hai dụ ngôn đều qui về một ý tưởng: người giàu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Chúa Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thật tương phản: một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa, Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.

Hai người cách xa nhau một trời một vực. Nhà phú hộ, nhà cao cửa rộng, trận vui suốt sáng trận cười suốt đêm. Người hành khất ngồi dưới đất đen. Gần nhau mà xa nhau. Mảnh vụn bánh từ bàn tiệc của nhà phú hộ rơi xuống cũng không đến tay người nghèo. Giữa hai người có một địa ngục, một vực thẳm. Người giàu có thể giơ tay lôi kéo người nghèo lên, nước giàu có thể cứu trợ nước nghèo khỏi phá sản. Có điều, họ có muốn không?

Điều bi đát là nhà phú hộ coi Ladarô như không có. Ông chỉ biết thụ hưởng, sống chết mặc bay.

Nhưng bi đát hơn: một đêm kia sự chết đánh gục cả hai người cùng một lúc. Ladarô được vào dự tiệc trên trời do Abraham chủ lễ, được “ngồi trong lòng”, nghĩa là bên hữu vị tổ phụ (Ga 13,23). Còn nhà phú hộ bị tống xuống biển lửa. Miệng ông khô đét không được một giọt nước để làm dịu cơn khát đang giày vò, như xưa Ladarô không được một vụn bánh rơi rớt để thoa dịu cơn đói hoành hành.

Hoàn cảnh và thời thế đã thay đổi.

Người giàu bị đuổi ra khỏi bàn tiệc, không phải vì ông nhiều của, nhưng vì ông bị của cải đè bẹp trong chiếc hòm quí giá người ta mang đi chôn. Người nghèo cũng chết nhưng được các Thiên Thần “nâng bổng lên nơi lòng Abraham”. Thế giới bên kia đã mở, một thế giới không phải của tiền bạc mà của tình yêu. Ai có tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, mới được vào.

Thời gian viên mãn. Công tội được cân nhắc và báo đền.

Abraham nói: “Suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”. Một tuyên ngôn nặng nề vì là một bản án vô phương giải toả.

Người chết đi, nhưng còn năm anh em ở lại. Họ cũng sống trong nhung lụa, coi người nghèo như không có trên mặt đất.

Có thể trong một ngày tang lễ, họ cũng đã đổ vài giọt nước mắt, nghe vài lời giảng thuyết: “Hỡi người hãy nhớ người là bụi tro, sẽ hoàn về tro bụi” (Stk 3,19). Nhưng rồi đâu lại vào đấy, Người đi đi mãi, kẻ ở vẫn tiếp tục cuộc sống lạc hoan. Phải một phép lạ, một người chết hiện về may ra mới cảnh tỉnh được họ. Nhưng trong thực tế, họ đi “cầu cơ, gọi hồn” vì tò mò, nhưng đời sống vẫn không thay đổi một gang một tấc.

Chỉ có Lời Chúa mới cứu vãn, nếu họ biết lắng tai nghe.

Lạy Chúa, xin cho lòng con đầy ưu ái, đầy tình thương cảm đối với tha nhân.

 

32. Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?

Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:

“Người nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta chôn ông”.

Chúng ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có “xấu xa”, nhưng đơn giản chỉ là “một người giàu có” và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: “Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống”.

Người giàu có không “thấy” Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói: “Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.

Đối với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua “vực thẳm lớn lao” được.

Vì không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh em của ông.

– “Lạy tổ phụ Abraham,… xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”, ông nói với Abraham như thế.

Abraham nói: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.

Người giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà …. Cần phải khua chiêng gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.

– Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.

Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:

Bài học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là “mũi nhọn”. Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua Abraham: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ”.

Thậm chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn…

– Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ.

Tôi phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?

 

33. Sống trong thế giới trái ngược

Đó là một ngày tháng bảy. Một người đàn ông ngồi ở bàn giấy trong một phòng có máy điều hòa. Nhiệt độ trong phòng ở 23 độ, một nhiệt độ thích hợp. Ông ta cảm thấy đầy nghị lực. Từ cửa sổ ông nhìn thấy mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ ở bên ngoài và thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lay động các ngọn cây. Đó là một ngày rất đẹp!

Ông ta nhìn một cậu thiếu niên đang làm việc trong sân. Căn cứ vào những động tác chậm chạp của cậu, người ta phải nghĩ rằng cậu là một tù nhân làm việc khổ sai. Cậu nghỉ ngơi thường xuyên. “Cậu ta có vấn đề gì? Làm sao mà một người trẻ tuổi lại lười biếng như thế?”. Người đàn ông tự hỏi.

Nhưng gần đến trưa, người đàn ông đi ra ngoài để làm một vài công việc. Ngay khi ông bước ra khỏi phòng, ông đụng phải hơi nóng như những làn sóng cản đường. Nhiệt độ bên ngoài là 34 độ và độ ẩm của không khí khá cao. Bấy giờ ông mới biết cậu bé đã chống chọi với cái gì. Và trong một ngày oi bức như thế này, ông ngạc nhiên vì cậu bé chưa bị ngất xỉu.

Mặc dù thế giới của ông được ngăn cách với thế giới của cậu bé chỉ bằng bề dày của một bức tường, hai thế giới ấy khác nhau nhiều lắm. Tuy nhiên nếu ông không rời khỏi thế giới của ông để bước vào thế giới của cậu bé, hẳn ông sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau đó.

Chúng ta có thể cách người khác chỉ một tầm tay, nhưng sống trong một thế giới khác với người ấy. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau ấy trừ khi chúng ta rời bỏ thế giới của chúng ta và bước vào thế giới của người đó. Chúng ta không bao giờ hiểu được điều đó từ bên ngoài.

Ông nhà giàu (phú hộ) và Ladarô đã sống trong những thế giới trái ngược, dù rằng những thế giới này nằm bên cạnh nhau. Nhưng ông nhà giàu chưa lần nào bước vào thế giới của người nghèo. Ông không nhìn thấy Ladarô như một con người, càng không phải là người anh em mà ông có thể chia sẻ nhân tính chung. Ông lãnh đạm, thờ ơ với Ladarô, và lãnh đạm là một thói xấu lớn.

Làm sao có thể như thế được? Của cải làm cho một người chỉ nghĩ đến mình. Chúng làm cho người ấy mù lòa trước những nhu cầu của những người khác và làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Đó là một bi kịch thật sự. Một cá nhân hoặc một quốc gia đánh mất tâm hồn mình khi cứ mải lo tích lũy những của cải lớn hơn.

Người giàu có không làm điều gì sai. Ông không làm tổn thương hoặc bóc lột người nghèo. Tuy nhiên, sau cùng “ông ta phải chịu cực hình trong âm phủ”. Ông ta bị lên án không phải vì ông ta giàu có mà vì ông không bày tỏ lòng thương xót người nghèo. Ông sống chỉ vì bản thân mình.

Tội lỗi không chỉ vì làm điều sai trái, mà còn là không làm điều tốt –tội không hoạt động, không làm gì và tệ hơn nữa là sự thờ ơ. Đây là một dụ ngôn làm xúc động. Không có cái kết thúc của một câu chuyện thần tiên– ít nhất là đối với ông phú hộ và ông này là nhân vật trung tâm của câu chuyện.

Xin Chúa, Đấng đã bước vào thế giới chúng ta một cách trọn vẹn, giúp chúng ta bước vào thế giới của những người đau khổ và thiếu thốn. Rồi khi đã có kinh nghiệm về đời sống của họ như thế nào, chúng ta chắc chắn sẽ được động viên để làm điều gì chúng ta có thể làm để giúp đỡ họ.

Là những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, chúng ta đến lượt mình phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ chúng ta cho sẽ trở thành mức độ mà chúng ta nhận.

 

34. SỐNG LỜI CHÚA- Tiền bạc

Vào thời Chúa Giêsu, hẳn rằng tiền bạc chưa chiếm được địa vị ưu tiên, địa vị số một như ngày nay, bởi vì người ta còn sống gần gũi với thiên nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta không thể đi một bước mà không cần đến tiền bạc, thế mà lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề tiền bạc lại thật là dứt khoát:

– Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.

Như vậy, không thể nào có được sự thỏa hiệp, sự đi nước đôi và đội trời chung giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Do đó, phải chọn lựa. Mà chọn lựa thì vữa có nghĩa là chấp nhận, lại vừa có nghĩa là từ bỏ.

Đúng thế, nếu muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, thì chúng ta không thể nào làm tôi tớ cho tiền bạc, không thể nào quì gối thờ lạy tượng con bò vàng. Hơn bao giờ hết, ngày nay con bò vàng, biểu tượng của tiền bạc, đang hướng dẫn và lũng đoạn thế giới. Và số người thần phục nó thật là đông đảo. Để kiếm được tiền bạc, người ta sẵn sàng làm mọi sự, dám bán đi cả thân xác lẫn linh hồn, dám hy sinh cả danh dự lẫn thời giờ quí giá của mình.

Sự chọn lựa căn bản này sẽ xác định hướng đi cho cuộc đời và sẽ đem lại những hậu quả thật trái ngược. Thực vậy, nếu tin tưởng và phụng thờ Thiên Chúa, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Còn nếu chạy theo tiền bạc và thế gian, chúng ta sẽ chỉ thấy được những gian tham và tội ác.

Đúng thế, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ông vua tàn bạo, một ông chủ hà khắc, nhưng là một người cha giàu lòng nhân ái, luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Để giúp chúng ta hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh, hình ảnh chim trời và hình ảnh cánh hoa đồng nội. Và rồi Ngài đã kết luận:

– Các con còn quí giá hơn gấp ngàn vạn lần những cánh chim trời và những bông hoa đồng nội.

Dân ngoại thường lo lắng nhiều về vấn đề cơm áo gạo tiền, còn chúng ta, những người con cái Thiên Chúa, chúng ta vừa phải làm việc, nhưng lại vừa phải tin tưởng vào Ngài. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy sự bình an và hạnh phúc.

Thế nhưng, chúng ta có thể nêu lên một vài thắtc mắc. Thắc mắc thứ nhất: Đây có phải là một sự tin tưởng mù quáng, làm tê liệt mọi hoạt động của chúng ta hay không? Chắc chắn là không, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ cho phép chúng ta lười biếng với thái độ ngồi chờ sung rụng. Hơn thế nữa, làm việc còn là một bổn phận của con người, như lời thánh Phaolô đã nói:

– Ai không làm thì không đáng ăn.

Thắc mắc thứ hai: qua bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, cũng như qua nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã có một thái độ khinh chê tiền bạc. Điều này chỉ cò thể được thực hiện nơi các bậc tu trì, chứ còn chúng ta, sống giữa lòng cuộc đời, làm sao chúng ta lại không cần đến tiền bạc? Không có tiền, làm sao chúng ta có được những phương tiện để sinh sống? Ấy là chưa nói tới những hậu quả thảm khốc do sự nghèo túng gây nên, như những bệnh tật phần xác và những tội ác phần hồn, vì bần cùng sinh đạo tặc,

Điều băn khoăn này thật hợp tình và hớp lý. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại lài một ông chủ hà khắc, giết chết mọi tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.

Ông phú hộ qua đoạn Tin mừng hôm nay bị kết án hỏa ngục, không phải vì ông ta giàu có, những vì trái tim ông ta đã trở nên băng giá và chai đá, đã khép lại trước nỗi đau khổ của Ladarô nghèo túng.

Hơn thế nữa, kiếm sống bằng những nghề nghiệp và những cách thức chính đáng là điều tốt. Chính Giáo hội đã đưa ra cho chúng ta mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài cũng đã từng lao động vất vả.

Đồng thời, Giáo hội luôn bênh vực quyền lợi của giới lao động và chống lại những chèn ép và bóc lột của giới chủ nhân. Giáo hội như muốn nhắn nhủ chúng ta rằng:

– Hãy lao động, hãy kiếm tiền để làm cho cuộc sống này được tươi đẹp hơn, nhưng đồng thời phải dứt khoát gạt bỏ những bất công. Đừng bao giờ trở thành nô lệ cho tiền bạc. Hãy làm việc và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán:

– Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi những sự khác sẽ được ban cho cac con sau.

 

35. HRK/181- Giàu có

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét mình về thái độ sống đối với anh chị em xung quanh, nhất là trên bình diện sử dụng nguồn vốn Thiên Chúa ban cho.

Bài đọc I trích từ sách tiên tri Amos: “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quí tại Sion và tự kiêu trên núi Samaria”. Những lời này tự cảnh tỉnh mỗi người trong chúng ta có thái độ tự kiêu, ỷ lại vào của cải mà không nghĩ gì đến những anh chị em đang cần sự chia sẻ và tình liên đới của chúng ta.

Thử hỏi hiện có bao nhiêu người trong xã hội này hằng ngày đang lo lắng? Nhưng trớ trêu thay, không phải lo lắng vì thiếu thốn nhưng lại lo lắng không biết phải ăn uống làm sao? Lo lắng không phải vì thiếu mặc, nhưng lo lắng phải mặc những kiểu áo nào cho hợp thời trang, vì có quá nhiều của cải dư thừa, không biết phải làm gì cho hết. Trong khi đó thì hằng ngày bên cạnh ta, trước mắt ta, bên tai ta, ta có thể thấy, có thể nghe không biết bao nhiêu thảm cảnh của những anh chị em đang phải chết đói, đang cần của ăn áo mặc cho cuộc sống.

Trước viễn cảnh đau lòng như vậy, có thể nào chúng ta im lặng, lãng quên được hay không? Mỗi người trong lãnh vực của mình và nhất là những anh chị em có trách nhiệm trong xã hội, trong môi trường sinh sống đều có bổn phận nghiên cứu để thăng tiến mức sống của những anh chị em khác. Những anh chị em nào có trách nhiệm nhiều thì sẽ không thể nào ngủ yên khi chỉ lo tìm tư lợi cho mình như người giàu có trong bài Phúc âm hôm nay. Ông vui sống an nhàn trong ngôi nhà sang trọng của mình mà quên đi hay không thèm biết đến nỗi thống khổ và sự cần được trợ giúp của anh người nghèo Ladarô ngay trước cổng nhà mình. Ông đã không thực thi tình liên đới bác ái chia sẻ và ông chỉ cảm thấy lời này khi qua đời. Lúc đó ông hiểu hơn: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.

Một nhà tỷ phú trước khi chết đã phải thốt lên: “Nếu tôi có thể đổi hết phần gia tài tôi có để thêm vài phút sống nữa trên trần gian này thì tôi sẵn sàng đổi”. Vài phút trên trần gian này có là bao so với sự sống đời đời. Vấn đề là chúng ta tin Chúa và tin vào sự sống đời đời hay không mà thôi.

Đối với những tín hữu bình thường là như vậy, rồi còn đối với những ai có trách nhiệm tôn danh Chúa lại còn phải đòi hỏi nhiều hơn nữa. Chúng ta được lưu ý điểm này nơi bài đọc II, lời của thánh Phaolô cảnh tỉnh người đồ đệ Timôthêô như sau: “Phần con, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó, hãy cố gắng trở nên người công chính đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến. Hãy sống nhẫn nại và hiền lành. Con hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, vì đức tin dành cho được sự sống đời đời. Chính vì sự sống này mà con đã được Thiên Chúa kêu gọi và con đã nói lên lời tuyên xưng trước mặt nhiều nhân chứng.

Thực hiện được những điều này đòi buộc người tông đồ của Chúa không những phải biết sống bác ái, chia sẻ tình liên đới, không ham của cải giàu sang mà còn phải biết chăm lo cho ơn cứu rỗi, cho sự sống đời đời của những ai được trao phó cho mình chăm sóc: “Hãy cố đạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi, và vì đó con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng”. Lời rao giảng của người đồ đệ Chúa cần phải đi đôi với việc làm, với đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.

 

36. CSTM/223- Dại dột

Bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số phận của nhà hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời này, người phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi ngày, sống trụy lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái hoài, một người hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước cổng nhà người giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.

Hai nhân vật này không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và người giàu cũng chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần đến đưa người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Trước hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa. Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ.

Ngược lại, nghèo khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể làm cho người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp, láo xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách Chúa, coi nhẹ linh hồn mình… Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết bao người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham lam đủ thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó, không phải nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần, có tâm hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy: công phúc của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.

Đàng khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên nước trời.

Ngược lại, ai khư khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên Chúa xét đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ cho ông Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ được thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên ông đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng lo lắng quá mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn chán, vì chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai, Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

 

37. NTGT/258- Yêu thương

Sách thánh ngày hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh của hai con người, là người như nhau nhưng cuộc sống rất khác nhau. Một người thật giàu có, ăn sang mặc sướng đến độ dư thừa. Người giàu này không làm hại ai, không lấy của ai và cũng chẳng cho ai điều gì ngay cả một miếng bánh vụn.

Vâng! Cảnh giàu có, trâu ruộng bề hề, lúa gạo đầy dư, vải mặc không hết, cồng chiêng quí giá… rượu uống quanh năm, heo gà… đếm không xuể… Không gian tham, không lấy của ai, không sợ phải cho ai thì làm sao mà lo, làm sao mà đói được…! Sống cảnh này, là người ai lại không mong, không thích… và ai mà không nghĩ như thế!

Sách thánh cũng cho biết, bên cạnh người giàu có là một người rất nghèo khổ, lúa gạo không có, áo quần rách rưới, mong đồ thừa rớt ra từ bàn ăn của người kia mà cũng không có một tí mà ăn…

Thật thế! Sống nghèo đói, tủi nhục như vậy ai mà ham được. Tuy nhiên, sẽ đến ngày mà ai cũng phải gặp; người giàu cũng sẽ chết và người nghèo cũng phải trở về với ông bà tổ tiên…

Theo ông bà của chúng ta từ xa xưa cho biết; mọi đồ đạc của người chết phải được mang theo để dùng như khi còn sống. Nhưng thực tế, ai cũng thấy là không đúng như vậy, người chết không thể mang theo điều gì, cũng chẳng có thể ăn được cái gì mình có hôm nay. Trộm cắp đã lợi dụng phong tục chôn đồ của người chết để lấy cắp đồ đạc, nhất là vàng bạc quí giá. Mồ mả ông bà bị họ đào tung lên hết! Thật là tội nghiệp họ, vì chết rồi lại cũng không yên và cũng vì phong tục cũng không có đúng với thực tế và cũng không đúng với sách thánh ngày hôm nay nữa… Như sách thánh cho thấy, cuộc sống sau khi chết sẽ rất khác; người nghèo được Chúa thương và người giàu, vì không cho người nghèo ăn nên Chúa không thương! Người nghèo được gặp ông Abraham là người ông bà của chúng ta được Chúa thưởng và cho gặp lại con cháu… Người giàu có thì không được gặp tổ tiên mà còn ở nơi đau khổ đói khát nữa…

Biết cuộc sống sẽ như vậy; không chia áo cơm cho người nghèo thì Chúa không thương. Như năm người con của người giàu… cũng không tin, cũng tham lam ích kỷ như cha của họ ngày trước… Tại sao lại như thế!

Thưa, là vì họ gặp Chúa mà họ không nhận ra Chúa, vì họ không nhận ra Chúa nên họ cũng không tin Chúa… nên người sống họ đã không tin, và họ cũng không tin có người sống lại từ cõi chết, thì dù có chăng nữa thì họ cũng chẳng tin.

Nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin người chết phải mang theo của cải để dùng nên họ không cho người khác, nhất là người thiếu ăn, thiếu mặc hằng ngày ta vẫn gặp.

Ai cũng mến Chúa, ai cũng tin Chúa vì Chúa có quyền đối với người sống lẫn người chết và Chúa có thể cho ta hạnh phúc hôm nay cũng như sau khi chết. Như Chúa Giêsu đã nói: “Ta là sự sống và là sự sống lại… Ai tin Ta sẽ được sự sống đời đời…” Và chính Chúa đã nói: “Ai yêu thương người nghèo là thương chính Chúa”, nghĩa là, ai cho người nghèo một chén cơm, một ly nước, một trái bắp… là cho chính Chúa, và Chúa sẽ cho lại gấp trăm những gì ta đã cho Chúa. Chúng ta cho người nghèo Chúa sẽ cho lại ta, chúng ta thương người nghèo Chúa sẽ thương ta.

Vậy chúng ta hãy tin tưởng lời Chúa Giêsu: chia cái ăn cái mặc cho người nghèo, thì chúng ta sẽ có hạnh phúc cả hôm nay lẫn mai sau nữa. Và vì chúng ta đã làm cho Chúa được no, được ấm suốt đời, và qaun trọng nhất là được vui hưởng hạnh phúc với Chúa Giêsu nơi Nước Trời…

home Mục lục Lưu trữ