Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1376625

GIỮA CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM

GIỮA CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Đừng đào thêm vực thẳm.

Trên hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại – Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo” giống như “con cái đời này”: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.

Giờ đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.

Người thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông. Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi – chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức Giêsu – và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ “Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.

Không chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà mình”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ “mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết… ông nhà giàu kia cũng chết”

  1. Một vực thẳm không thể vượt qua

Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải ở “dưới âm phủ, đang chịu cực hình”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.

Muộn quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.

Theo nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy

  1. Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.

Câu chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em còn sống trên trần.

Họ có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này”. Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó “từ cõi chết” hiện về với họ, “thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ao tưởng thôi – câu trả lời cho ông – nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe”: Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư’? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh em”. Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)

Bài học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Sức mạnh của Tin Mừng.

“Không mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là… cười nhạo Đức Giêsu”. Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết lòng các ông”. Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.

Đức Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó!”. Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.

  1. Trên những nẻo đường của tình liên đới

(G. Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).

Nỗi khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.

Tiếng than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu, hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.

Chúng ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?

Giúp tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những nhu cầu cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.

Cống hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ vận mạng của mình.

Chúng ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi, luật pháp, công ước.

Góp tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới, của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.

Điều nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.

Sau hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải, chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn…

Phải chăng Thiên Chúa mới đúng là “người từ cõi chết” đến kêu gọi chúng ta như thế?

 

60. Chú giải của William Barclay

HÌNH PHẠT CHO NHỮNG AI KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN NHỮNG NỖI KHỔ CỦA THA NHÂN

Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lý. Dụ ngôn về người phú hộ Ladarô nghèo được Chúa dùng để cảnh cáo những người nghe khỏi lạm dụng của cải. Trong câu chuyện này Chúa không dạy rằng nên làm giàu là tội lỗi hoặc tất cả người nghèo đều được cứu. Ngài muốn nói đến cái hiểm họa nghiêm trọng của việc sử dụng tiền bạc cách ích kỷ. Tội của người phú hộ không phải ở trong cách làm giàu hay trong sự giàu có của ông, cũng chẳng phải trong nếp sống kém đạo đức của ông, mà ở một điều đã được mô tả rõ ràng là trong khi ông ta sống xa xỉ ích kỷ, thì có một người thiếu thốn khổ sở ngay trước nhà ông mà không được ông giúp đỡ.

Chúng ta rút tỉa một số dạy dỗ trong dụ ngôn này.

  1. Trước hết dụ ngôn dạy tất cả mọi người đều phải chết, và chết chưa phải là hết vì vẫn còn một đời sống bên kia cửa tử, và đời sống ấy là hậu quả của đời sống này:

Ngay sau khi chết con người được tòa án Thiên Chúa xét xử về đời sống trên trần thế để đáng lãnh thưởng hay bị chịu phạt.

Trên trần gian, của cải vật chất cũng như các đau khổ, đều là tạm bợ, sẽ mau qua, nó chấm dứt với cái chết, và bởi sự chết cũng chấm dứt thời gian thử thách và khả năng làm lành hay làm ác, rồi bắt đầu từ đó vui lòng thưởng công hay chịu đau khổ hình phạt tùy theo hậu quả của đời sống trên trần.

Theo như giáo lý của Giáo Hội: linh hồn của những người chết trong ơn nghĩa Chúa sẽ được lên thiên đàng ngay hay sau một thời gian thanh luyện nếu cần: “Chúng tôi tin có sự sống đời đời. Chúng tôi tin rằng tất cả những người chết trong ơn nghĩa Chúa Kitô, hoặc còn phải thanh luyện trong luyện ngục, hoặc ngay sau khi rời bỏ thân xác, được Chúa Giêsu đem về thiên đàng như người trộm lành, đều là dân Thiên Chúa bên kia cửa tử, tử thần sẽ bị vĩnh viễn chiến bại ngày phục sinh khi các hồn người được kết hợp lại với thể xác”. (Phaolô VI, tuyên xưng đức tin Công Giáo).

  1. Tiếp theo là bài học chính yếu của dụ ngôn, dụ ngôn đề cập đến vấn đề sử dụng ích kỷ của cải trần gian.

Chúng ta cần phác hoạ hai nhân vật trong câu chuyện để thấy được điểm này.

– Trước hết là người giàu. Mỗi câu văn đều làm tăng thêm sức sống sa hoa của ông ta. Ông thường mặc áo tía hồng và áo gai mịn đó là cách nói về hai bộ áo của thầy tế lễ thượng phẩm với giá từ ba mươi đến bốn mươi Anh kim một số tiền khổng lồ, trong khi lương công nhật một người chỉ được bốn xu Anh, ông ta ăn cao lương mỹ vị hàng ngày. Từ ngữ chỉ đồ ăn ở đây dành cho những tay sành điều, chuộng những món ăn đắt tiền và hiếm có. Ông ta ăn như vậy mỗi ngày, tức là chủ ý phạm điều răn của Chúa. Điều răn Chúa không những cấm làm việc trong ngày sabat, mà cũng còn nói “ngươi hãy làm việc trong sáu ngày” (Xh 20,91) trong một xứ mà được ăn thịt mỗi tuần mộ lần và vẫn phải làm việc suốt sáu ngày trong tuần đã là may mắn rồi, thì người nhà giàu này quả là một tên lười biếng, chỉ ăn chơi. Còn Ladarô cứ chờ đợi từng mẩu bánh nhỏ rớt xuống từ bàn tiệc của người nhà giàu. Trong thời Chúa Giêsu, khi ăn không dùng dao, nĩa hay khăn, nhưng dùng tay mà ăn, và trong những nhà giàu có, người ta dùng những mẩu bánh mì nhỏ lau tay cho sạch rồi ném bánh đó. Ladarô chỉ đợi những mẩu bánh này.

– Nhân vật thứ hai là Ladarô. Lạ thay, Ladarô là một nhân vật duy nhất trong truyện ngụ ngôn được nêu tên riêng. Tên đó có nghĩa là “Chúa là sự giúp đỡ của tôi”. Ông là người ăn mày, mình ông đầy ung nhọt. Ông yếu đuối đến nỗi không thể đuổi lũ chó hoang ở đường phố, chúng đem mõm bơ bẩn đến làm khổ ông.

Cảnh tượng thế gian là như vậy, rồi tức khắc biển đổi sang một cảnh khác, khi cả hai bước qua cửa tử, trong đó Ladarô được vinh hiển, còn tên nhà giàu bị gia hình. Tội của người nhà giàu này là tội gì? Ông ta không tống cổ Ladarô ra khỏi cổng nhà, đã không phản đối mà vẫn để cho Ladarô nhận lấy những miếng bánh từ trên bàn của ông ta vất xuống. Ông đã không giơ chân đá Ladarô mỗi khi đi qua, đã không có lòng độc ác với Ladarô kia mà! Tội của ông ta là tội đã không quan tâm đến Ladarô, là kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, là chấp nhận Ladarô như một phần của cảnh đời và chỉ đơn giản nghĩ rằng việc Ladarô sống trong đau khổ, đói khát, còn ông ta chìm ngập trong xa hoa sung túc, chỉ là việc tự nhiên không thể tránh khỏi được, như có người đã nói “Không phải vì ông ta đã làm những điều quấy mà bị sa địa ngục, nhưng chính vì ông ta không quan tâm đến các điều lành phải làm nên mới xuống đó”.

Lấy câu chuyện này làm điểm tựa, Đức Gioan Phaolô II đã ban huấn tại sân vận động Yaukee: “Người giàu này bị hình phạt vì ông không quan tâm tới người khác, vì không để ý gì tới Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Người đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác…

Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giàu và nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giàu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”. Nói như thế Đức Thánh Cha cũng chỉ nhắc lại điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Các giáo phụ và các tiến sĩ của Giáo Hội dạy rằng mọi người có bổn phận nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của cải dư thừa. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới. Thánh Công Đồng tha thiết kêu gọi mọi người “hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn là giết chết họ” (MV 69).

Về một phương diện khác, dụ ngôn này về giá trị cao cả của con người, độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội, văn hóa tôn giáo, tình trạng giàu nghèo… Lòng kính trọng nhân phẩm này diễn tả việc ta phải giúp đỡ những ai khi gặp cảnh xấu số về tinh thần cũng như vật chất. “Vậy mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (MV 27).

Tội của người nhà giàu này là ông ta thấy những đau khổ túng cực của thế giới mà không cảm thấy thương xót, buồn rầu, ông ta đã nhìn thấy một người đói khổ và không làm gì để cứu giúp. Hình phạt cho người này là hình phạt của một người đã không hề chú ý, quan tâm đến kẻ khác. Cần phải nhớ lời cảnh cáo đáng sợ ở đây: tội của người giàu ở đây không phải là ông đã làm gì xấu xa nhưng là đã không làm gì cả trước những đau khổ của kẻ khác.

Một thí dụ khác của việc tôn trọng nhân phẩm là phân phối cân bằng tài nguyên thế giới, và những nỗ lực bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, như Đức Phaolô đệ lục đã phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 4-10-1965: “Chính trong tổ chức của quý vị, mạng sống con người, ngay cả trong vấn đề sinh sản, phải được đặc biệt tôn trọng và được bảo vệ. Nhiệm vụ của quý vị là làm thế nào để có dồi dào cơm bánh trên bàn ăn nhân loại, chứ không phải là cổ võ kiểm soát sinh sản một cách giả tạo và phi lý, nhằm giảm bớt số người tham dự bữa tiệc đời sống”.

  1. Bài học cuối cùng liên quan tới lời yêu cầu của người giàu xin cho anh em ông.

Có thể là vì tình thương mà xin, nhưng cũng rất có thể ngầm bào chữa rằng nếu được soi sáng nhiều hơn, hẳn ông đã không phạm tội đáng buồn như thế.

Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời ông ta xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Ápraham là nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn. Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân, chí có thù ghét ngự trị. Khi Ápraham nói với người giàu: “giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn”. Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà!

Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích của thánh Gioan Kim Khẩu: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta”.

 

61. Sự công bằng của Thiên Chúa

(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Pet. Trần Đình Phan Tiến)

Vâng! Kính thưa quý vị, khởi đi từ Bài đọc I (Am 6, 1a. 4-7), tiên tri Amốt đã cho biết rõ về sự công bằng của Thiên Chúa bằng những lời lẽ hết sức rõ ràng. Thiên Chúa đã chúc dữ cho những ai sống cuộc sống phong vận tại Sion và trên núi Samaria. Theo đó, sống một cuộc sống xa hoa, phung phí, không biết tôn kính Thiên Chúa và tha nhân, mặc sức sống một cuộc sống vàng son, trụy lạc, nên chi họ đã bị lên án.

Bài đọc II, thánh Phaolô cho biết Đức Kitô- Giêsu cho chúng ta sống một mẫu gương Bác ái, đạo đức. Chính cuộc sống ấy, một cách kiên nhẫn, chúng ta sẽ nhận được một sự sống từ Thiên Chúa qua Đấng cứu chuộc Giêsu- Kitô, Đấng ấy sẽ xét xử mọi loài. Đấng ấy là Vua các vua, Chúa các chúa.

Qua đó, Lời Chúa hôm nay (Lc 16, 19-31), có hai ý chính cho chúng ta thấy sự công bằng của Thiên Chúa và tiên báo mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Giêsu.

Đó là dụ ngôn người giàu có và người nghèo Lazarô.

Theo đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đến để dạy cho chúng ta một chân lý về của cải, sự giàu có về tài sản thế trần. Bên cạnh thứ tài sản hiện hữu ở trần thế, chúng ta còn có một thứ tài sản vô cùng quý giá ở Nước Trời. Đó là Thiên Chúa, vâng! Thiên Chúa chính là “khối tài sản” quý giá nhất của con người. Vì vậy, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa một cách có ý thức, như vậy Lời Chúa mới giúp chúng ta nhận ra chân lý để chân nhận Thiên Chúa mới chính là tài sản mà chúng ta hướng đến.

Qua sự trình thuật của thánh Luca hôm nay, giữa người giàu và người nghèo, chúng ta thấy rõ sự ngăn các, sự khác biệt đối với cuộc sống giữa hai người khi còn sống, một bên là xa hoa, sang trọng quá mức, một bên thiếu thốn, nghèo hèn quá mức. Một bên là ăn vận lụa là, gấm vóc, một bên là ghẻ lở đầy mình, đến nỗi chó đến liếm ghẻ.

Như vậy, sự khác biệt giữa hai cuộc sống là quá lớn, người phú hộ giàu có kia đã sống một cuộc sống đầy đủ, trọn vẹn nơi trần gian. Còn người ăn mày Lazaro thì thiếu thốn mọi thứ trong cuộc sống trần thế. Nhưng đến lúc hai người cũng phải chết, rồi thì cuộc sống sau khi cuộc sống trần gian kết thúc, người ăn mày Lazaro được các Thiên Sứ đem vào lòng Tổ Phụ Apraham. Còn người phú hộ thì vào nơi dành riêng cho ông ta. Lúc nầy, cuộc đời đổi lại 360 độ, Người nghèo Lazaro được hưởng những gì mà người phú hộ kia không thể hưởng được. Như vậy, chúng ta thấy, mầu nhiệm của sự sống không phải là ở nơi của cải, mà là ở nơi tình yêu Thiên Chúa ngự trị và chính Thiên Chúa mới là tài sản đích thực của chúng ta. Vì điều gì hiện hữu nơi chúng ta nhìn thấy, thì không còn là mầu nhiệm nữa, mà là một sự hiện nhiên, một sự bộc bạch từ Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn trên, chúng ta nhìn thấy hai cuộc đời, hai số phận khác nhau, sự chênh lệch quá lớn nơi sự hiện hữu ở trần gian. Sự bất hạnh và sự hạnh phúc nơi trần gian, mà nhân trần nhìn thấy được thì hoàn toàn khác biệt với những gì mà phàm nhân chưa nhin thấy được, đó là mầu nhiệm của sự sống nơi có Thiên Chúa hiện hữu.

Dụ ngôn trên, cho chúng ta biết sự công bằng của Thiên Chúa và sự giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chúng ta phải nhận ra chân lý ấy. Để chúng ta không phải hối tiếc như người phú hộ kia.

Chúng ta may mắn hơn người phú hộ, vì Chúa Giêsu đã đến trực tiếp giáo huấn chúng ta, và Người đã tử nạn và Phục Sinh để cho chúng ta tin vào Người.

Mầu nhiệm của sự sống sau cái chết trần thế, không ai biết rõ, trừ phi “Người Ấy” từ cõi chết sống lại. Qua sự đối đáp giữa Tổ Phụ Apraham và người phú hộ, chúng ta thấy, ông ta sau khi nhận ra sự thật thì đã muộn màng. Và muốn xin một đặc ân sau cùng cũng không được, vì sự sống và sự chết thật có một hố sâu ngăn cách, không thể liên thông được. Ông ta ao ước có một người từ cõi chết sống lại để nói cho người thân của ông ta biết đừng sống một cuộc sống như ông ta. Đó là lý do, mà Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng, đời nầy nếu chúng ta biết sống công bằng hợp lý, thì chúng at sẽ không phải ân hận như người phú hộ kia.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho chúng ta:

* Một sự hy vọng chắc chắn vào đời sau

* Một niềm cậy trông vững vàng vào Chúa Giêsu và những Lời dạy của Người.

* Vì Thiên Chúa là Đấng công bằng và công minh đối với mọi người.

* Thiên Chúa chính là tài sản quý giá nhất, vì những gì ở nơi Thiên Chúa và thuộc về Ngài là vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và dạy cho loài người những bài học về Nước Trời. Trong dụ ngôn trên, không phải Chúa muốn trừng phạt kẻ giàu có, mà là cho họ một bài học để thức tỉnh vì tình thương. Chúa đã yêu thương người giàu cũng như kẻ nghèo, và muốn cứu độ tất cả họ. Xin thương ban cho mọi người giàu cũng như nghèo, biết nhận ra chân lý của tình yêu là Thiên Chúa duy nhất. Đó là tài sản quý giá nhất của họ mà thôi. Amen.

 

62. Đừng vô cảm… – Petrus.tran

Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam rất phong phú. Có thể nói rằng, nó là một kho tàng tốt cho việc giáo dục con người xưa cũng như nay.

Thật vậy, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần được dạy dỗ rằng, “thương người như thế thương thân”, hoặc “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, hay “một miếng khi đói bằng gói khi no” v.v… Tiếc thay! có vẻ như, những lời dạy dỗ tốt đẹp đó ngày càng xa rời cuộc sống của không ít người hôm nay.

Nhớ, ngày 13/10/2011, tại thành phố Phật Sơn, Nam Hải, Trung Quốc. Một bé gái ba tuổi tên Yue Yue đang chơi trong khu chợ, có một chiếc xe tải đi qua, chiếc xe đó cán lên người cô bé. Nhiều người qua lại nơi đây, thấy, nhưng họ vẫn dửng dưng bỏ đi. Theo dõi trên clip, có khoảng 20 người qua lại nơi tai nạn xảy ra, nhưng không ai dừng lại cứu cô bé.

Rồi cũng trong năm 2011, vào ngày 07/10, một vị bác sĩ, trong lúc lái xe bất cẩn, đã gây ra một tai nạn hàng loạt khiến cho hai người chết và mười bảy người khác bị thương. Điều đáng tiếc là, khi tai nạn xảy ra, những người hiếu kỳ thay vì đưa nạn nhân cấp cứu, họ lại nhảy vào “hôi của” cướp đồ nạn nhân…

Tại sao lại có những chuyện như thế xảy ra? Thưa, đó chính là do “sự vô cảm”, sự vô cảm đã chế ngự con người, nó làm cho con người trở nên ích kỷ, dửng dưng, không rung động, không cảm xúc trước nổi đau, hoạn nạn của người khác…

Nói đến sự “vô cảm”, có thể nói, hàng ngày, nó đã gây ra biết bao nhiêu “… điều trông thấy mà đau đớn lòng”, từ chuyện một chú bé “cuộc sống đói rách bơ vơ…Hỏi ai ai cho nương nhờ! Chuỗi ngày tăm tối bơ vơ…” cho tới chuyện, có những đại gia, tỷ phú… đã dám chi hàng tỷ đồng chỉ để “ăn một bữa trưa” theo sở thích của mình.

Niềm tin Kitô giáo không dạy con người sống vô cảm. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng, một Kitô hữu không chỉ mến Chúa nhưng còn phải yêu thương người. Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn. Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc. v.v…”

Vâng, “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc” cũng chính là điều Chúa Giêsu luôn đem ra khuyên dạy và đề cao.

Thật vậy, với sự giàu có, Ngài đã khuyên dạy rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 19-21)

Với những người, có “rất nhiều của cải”, như trường hợp ông thủ lãnh nhà giàu, Đức Giêsu khuyên “hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo và ông sẽ được một kho tàng trên trời”.

Và để cho mọi người cảm nhận rõ lời khuyên đó, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” (x.Lc 16, 19-31).

Dụ ngôn được kể rằng: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.(x.Lc 16, 19) Câu chuyện sẽ không có gì để nói, nếu “trước cổng ông nhà giàu” không có “một người nghèo khó… nằm (ở đó)”.

Người nghèo khó đó tên là Lazaro, anh ta trông thật thảm thương. Trên cơ thể anh ta “mụn nhọt đầy mình”.

*Thưa bạn, bạn có bị “ghẻ” bao giờ chưa! Tôi đã bị. Năm học lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), chân tay của tôi “mụn nhọt đầy mình”, phải nói rằng, nhức nhối khủng khiếp. Thế nhưng, cái nhức nhối của thể xác không sánh bằng cái nhức nhối tinh thần. Cái nhức nhối tinh thần, đó là sự cô đơn, một lớp học gần bốn mươi học sinh, nhưng không có một người nào muốn đến gần tôi. Thật ra, cũng có người đến, nhưng họ đến chỉ để nói với tôi rằng “đồ ghẻ tàu!”.

Với “ngưòi nghèo khó tên là Lazaro” ư! Có phần chắc, anh ta cũng nhức nhối, anh ta không chỉ nhức nhối thể xác bởi mụn nhọt, bởi cái dạ dày “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”, anh ta còn nhức nhối tinh thần. Từ tâm can, anh ta nhận ra “sự vô cảm” của ông nhà giàu, phải chi ông ta đến và chỉ nói “đồ ghẻ La Mã” có lẽ anh ta cũng vui vui chút ít!

Sự vô cảm của ông nhà giàu, có thể ví như “cục lơ Pháp”, đã được ông ta “thoa” lên “cây cơ” là đám mụn nhọt và sự đói khát trong nỗi cô đơn của anh Lazaro. Vâng, chỉ là một cách diễn tả, kết thúc hồi một, buồn thay! chỉ có “mấy con chó… đến liếm ghẻ chốc anh ta”.

Với hồi hai, như người ta thường nói “mồm chó vó ngựa”. Anh Lazaro, phần vì đói, phần vì mồm những con chó liếm vào những vết ghẻ của anh ta… Ôi! vết thương của anh ta, không nhiễm trùng mới là chuyện lạ! Lazaro chết, có phần chắc, vì đói và vì nhiễm trùng. Sau đó, “ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).

Và như lời một bài kinh đã viết “sự chết chỉ là sự biến đổi chứ không hề tiêu tan”. Cuộc đời Lazaro được biến đổi, anh ta không còn cô đơn bên “mấy con chó” nhưng tràn đầy hạnh phúc “trong lòng tổ phụ”.

Còn ông nhà giàu ư! Chuyện được kể tiếp rằng: “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta…” – ông nhà giàu – lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta.

Trước kia, nơi trần gian, Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Nay, dưới âm phủ, ông nhà giàu “thèm” được Lazaro “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi (ông) cho mát, vì ở đây (ông) bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16, 24).

Kết thúc dụ ngôn, như đã nói ở trên, anh nhà nghèo tên là Lazaro được ở “trong lòng tổ phụ”. Còn ông nhà giàu thì “Phải chịu khốn khổ” (Lc 16, …23).

**

Qua dụ ngôn này, có thể nói rằng, “sự vô cảm” chính là con đường dẫn chúng ta đến “âm phủ”. Chính vì thế, là một Kitô hữu, chúng ta đừng quên rằng, những gì chúng ta làm hôm nay, ở đời này, sẽ là “tấm chiếu khán” đưa chúng ta đến đời sau, nơi “hỏa ngục” hay “thiên đàng”.

Giàu có ư! Tốt, vì đó là ơn phúc Chúa ban.

Giàu có không phải là một cái tội. Câu chuyện dụ ngôn trên không thấy một câu hay một chữ nào lên án về việc “giàu có” của ông nhà giàu. Hãy nhìn xem sự giàu có của ông Gióp khi xưa. Kinh Thánh có chép rằng, Ông ta có “một đàn súc vật bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái”. Chính Xatan cũng phải công nhận Đức Chúa đã “ban phúc lành cho công việc do tay (Gióp) làm, và các đàn gia súc của (Gióp) lan tràn khắp xứ” (G 1, 10).

Chỉ có điều, nếu giàu có thì, hãy nghe tông đồ Phaolô nói: “Đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng”(1Tm 6,17).

Thánh nhân thêm một lời khuyên rằng: “Phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy (sẽ) tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai”.

Cho nên, khi ta giàu có “Hãy rộng lượng với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí. Hãy đón tiếp kẻ khó nghèo, vì họ túng quẫn, đừng để họ ra về tay trắng” (Hc 28, 8-9).

Hãy nhớ, sự giàu có không ngăn cách ta đến bên “lòng tổ phụ” Apraham, sự vô cảm mới chính là “hố sâu” , là “vực-thẳm-lớn” ngăn cách ta với ngài, sau này, cũng như với những người anh em, những người đồng loại, ngay hôm nay.

Nếu hôm nay, trong cuộc sống thường nhật, chúng ta “không vô cảm” với những người anh em, những người đồng loại, những người mà họ đói chúng ta cho ăn, họ khát chúng ta cho uống, họ rách rưới chúng ta cho mặc, họ bịnh hoạn chúng ta thăm viếng v.v… thì, sau này, trong ngày phán xét, Chúa cũng sẽ không nhìn chúng ta bằng ánh mắt “vô cảm”.

Trái lại, Ngài sẽ nói với chúng ta rằng, “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho Ta ăn; Ta khát, các người đã cho Ta uống… Ta là khách đau yếu, các ngươi đã thăm viếng…”(Mt 26, 34-36)

“Ta” là ai? Thưa, Ta là “họ”. “Họ” là ai? Thưa, họ là những người chúng ta “không vô cảm”.

Nói tắt một lời, để đời sau, chúng ta không phải lớn tiếng kêu, “Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con”, thì đời nay, nguyên tắc sống của chúng ta chỉ cần gói gọn trong ba chữ “đừng vô cảm”.

 

home Mục lục Lưu trữ