Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1376815

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa "Xin vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: "Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta".

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

 

4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Với hai tiếng "Xin Vâng", cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.

Thật vậy, với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.

Với hai tiếng "Xin Vâng", tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.

Sau khi thưa "Xin Vâng", Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.

Nhưng cũng với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.

Với hai tiếng "Xin Vâng", không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: "Người bảo gì các con hãy cứ làm theo" (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ "nước lã hóa thành rượu ngon". Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.

Với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Và với hai tiếng "Xin Vâng", một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là "Người Nữ Thánh Thể". Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Lời "Xin Vâng" của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa "Xin Vâng" với Chúa trong đau khổ không?.

2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo" nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?

3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng "Xin Vâng" để thực hiện không?

 

5. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới

(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)

Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.

Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.

Gương một nhà trí thức...

Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!". Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".

Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"

Êm đềm mà thấm lâu...

Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.

Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.

Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.

Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.

Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.

Hướng đến một nhân loại mới

Lời kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).

Lời chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:

"Chữ E-va Mẹ đảo vần,

Thành A-ve gửi bình an cho đời".

Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".

Đọc kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...

Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.

Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.

Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.

Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.

 

home Mục lục Lưu trữ