Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1378769
HÃY RA ĐI VÀ MANG NHIỀU HIOA TRÁI
Hãy ra đi và mang nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô đã trao ban cho chúng ta một sứ điệp cao trọng: “...Thầy đã chọn các con và cắt cử các con để các con ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của các con tồn tại”. Chúng ta, những con người yếu hèn, có thể mang lại hoa trái! Nhưng điều đó có ý nghĩa gì với cuộc sống cụ thể của chúng ta?
Chúng ta chỉ có khả năng sinh hoa kết quả, nếu chúng ta ra đi, nếu chúng ta biết vùng dậy ra đi! Thái độ “ra đi” và “vùng dậy ra đi” ở đây chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, chứ không chỉ võn vẹn “lên đường và ra đi” mà thôi! Thái độ đó còn có nghĩa là: mở rộng lòng mình, luôn có tâm hồn sẵn sàng, luôn biết lắng nghe và biết đón nhận!
Nhưng làm thế nào để cuộc sống chúng ta mang lại hoa trái? Đó là khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn mình để đón nhận thánh ý Thiên Chúa, để cộng tác với kế hoạch cứu độ của Người, biết nghe theo những thúc đẩy chính đáng của nội tâm mình hay từ bên ngoài. Ngược lại, nếu chúng ta sống theo những phạm trù, những định kiến cá nhân bất di dịch và khô cứng cũng như với một thái độ khép kín, cuộc sống chúng ta sẽ không bao giờ sinh hoa kết quả được. Chúng ta cần phải vùng lên, mở rộng lòng mình, hãy sống cởi mở và hòa đồng với người khác, và hãy sống trưởng thành đúng với nhân vị của mình. Chỉ có thê, cuộc sống chúng ta mới có thể mang lại hoa trái.
Dĩ nhiên, việc chúng ta mang lại hoa trái không đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện được một điều gì đó. Vì thực hiện được một điều gì đó, tôi có thể cố gắng đem hết sức mình để đạt cho bằng được, hoặc công việc đó có thể bị áp đặt, có thể bị ngoại cảnh đòi hỏi, hoàn toàn ngoại tại và xa lạ với tôi. Trong khi đó, việc đời sống tôi đâm hoa kết trái lại bắt nguồn từ những gì nội tại trong tôi, bắt nguồn từ bản chất riêng biệt của cá nhân tôi. Những gì được đặt để trong con người và nhân vị của tôi, đạt tới sự trọn vẹn của chúng khi chúng đâm hoa kết quả. Nhưng việc đâm hoa kết quả chỉ thành đạt, khi chính tôi thành đạt trong suốt cuộc diễn biến đó, khi nhân vị tôi được phát huy và triển nở.
Tiếp đến, một hoa quả cần phải phát triển từ búp non cho tới hồi chín vàng. Nó cần phải có không gian phát triển, nghĩa là những điều kiện sống tốt, những nhu cầu săn sóc vun xới cẩn thận và sự kiên nhẫn. Chúng ta có thể giúp cho một quả cây chín vàng tốt đẹp, nhưng chúng ta không thể áp đặt được chuyện đó. Như vậy, một đàng chúng ta đóng góp phần năng động của mình, đàng khác chúng ta lại phải tôn trọng sự diễn biến tự nhiên. Cả hai thái độ đó đòi hỏi sự nhẫn nại và sự cần mẫn, và cả hai đều là những đặc tính của một người làm vườn rành nghề. Vậy, để cuộc sống của chúng ta đâm hoa kết trái và đạt tới mức độ chín vàng, chính chúng ta phải là những thợ làm vườn thông thạo, trong đó tính năng động không thể thiếu được.
Trong cuộc sống của chính mình, chúng ta phải bắt đầu vui mừng và hài lòng với những hoa quả nho nhỏ thường nhật, như:
Kết quả của khả năng mình sau một thời gian trau dồi học tập lâu dài (thi tốt nghiệp, thi ra trường, thành công trong khi tiếp xúc với các kỷ thuật mới mẽ,v.v...)
Kết quả của sự tự tín chắc chắn qua những khả năng của chính mình, qua sự công nhận và sự đuợc tiếp nhận bởi xã hội.
Kết quả của tình đồng loại, chẳng hạn: những thành công trong các cuộc hội đàm, trong các cuộc trao đổi tốt đẹp, những thành công trong việc hòa giải với nhau sau những va chạm đụng độ, những thành công trong việc giáo dục con cái, v.v...
Tiến sâu hơn nữa, đó chính sự trưởng thành cá nhân của chúng ta. Vâng, khả năng làm cho chúng ta trở nên một nhân vị có phẩm chất và bản lãnh riêng biệt, là một ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người. Thành quả trở nên một nhân vị với đầy đủ tư cách của một người trưởng thành là ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc sống chúng ta. Vì thế, một khi chúng ta hiện thực được thành quả đó, nó sẽ trở nên nguồn suối làm tươi mát được biết bao đồng loại. Vâng, nếu chính chúng ta càng trở nên trưởng thành và đứng đắn, chúng ta càng dễ dàng thông cảm với người khác hơn, cả khi họ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Chúng ta có thể trở thành nguồn an ủi và nâng đỡ cho đồng loại, khi chính chúng ta đã từng trải và trưởng thành trong cuộc sống, biết chấp nhận và thăng tiến kẻ khác. Nhưng nghị lực giúp chúng ta trong suốt tiến trình đạt tới sự trưởng thành, chúng ta chỉ tìm gặp được trong tình yêu. Trong bầu không khí mọi người biết chấp nhận nhau một cách thân hữu, nhân vị mỗi người sẽ có thể phát huy và triển nở, cuộc sống của mỗi người sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Và khi trong chính chúng ta hoa trái của sự phát huy chính mình càng trở nên chín muồi, thì chúng ta càng có thể đưa mắt trông nhìn đến hoa trái của kẻ khác và giúp đỡ được họ trong việc làm cho hoa trái của họ được chín muồi.
Nói tóm lại, mỗi người trong chúng ta có thể mang lại hoa trái và qua đó tham phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, không chỉ với tính cách là một thụ tạo, nhưng chính chúng ta cũng phải mang tính cách sáng tạo, chính chúng ta cũng phải hành động nữa. Trong lời hứa của Đức Kitô nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “... và để hoa trái của các con tồn tại”, điều đó có nghĩa: Giữa sự tạm bợ chóng qua của cuộc sống trần thế, những hoa quả của đời sống đức tin: Những việc lành phúc đức, những việc bác ái yêu thương của chúng ta sẽ tồn tại bền vững và cùng đồng hành với chúng ta vào trong cuộc sống bất diệt trên quê Trời.
59. Suy niệm của Lm Nguyễn Văn Phan.
Không thể tránh né một sự thật này, đó là điều quan trọng nhất Đức Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện, thậm chí ra lệnh chúng ta phải làm chính là yêu thương nhau. Vào đêm trước khi chịu chết, Người đã trao cho chúng ta một lệnh truyền giản đơn: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Mẫu mực và tiêu chuẩn cho cuộc sống Kitô hữu chính là Tình Yêu mà Đức Kitô đã thực hiện trước mắt chúng ta trên cây Thập giá. Đòi hỏi duy nhất trong quà tặng tình yêu của Thiên Chúa là khiêm tốn bước tới đón nhận để mà ra đi chia sẻ cho người khác. Tình yêu dành cho những người mà chúng ta còn có thể nhìn thấy được sẽ giúp chúng ta, ngay trên trần thế này, được đến gần hết sức, dấn sâu hơn vào Tình Yêu Thiên Chúa, Đấng chúng ta chẳng có thể nhìn thấy bao giờ. Để cảm nghiệm được tình yêu Đức Kitô, chúng ta phải nhổ bỏ tận gốc rễ cả tính ích kỷ và bắt đầu nghĩ đến tha nhân nhiều hơn chúng ta: Khi chúng ta từ chối chia sẻ cho người khác, chúng ta tự kết án giam mình trong mùa Đông của cô đơn, tự khoanh mình trong bốn bức tường ngăn mọi người ở ngoài hay ít ra là ở một khoảng cách an toàn.
Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi trở nên những con người sống cho người khác, vì người khác, theo gương Đức Kitô. Tình yêu là một cuộc tự hiến luôn đòi chúng ta phải cho đi không chỉ tất cả những gì chúng ta có mà còn phải cho đi chính bản thân chúng ta, thời giờ, và khả năng chúng ta nữa. Xin đơn cử một ví dụ, các bậc làm cha làm mẹ có thể làm chứng cho Đức Kitô trong đời sống hằng ngày của mình bằng chính công việc sinh kế quên cả mệt nhọc của mình để nuôi sống gia đình, chăm sóc con thơ bệnh tật và hết lòng dạy dỗ chỉ bảo con cái những khi chúng băn khoăn không biết hỏi ai... Làm tất cả chuyện đó thật là vất vả và đáng làm, vì đó thực là cuộc đấu tranh ngược dòng và kiên trì với nhiều ghềnh lắm thác, nhưng khi làm được như thế họ được bảo đảm là sẽ được tìm thấy Thiên Chúa va hạnh phúc. Nơi đâu có tình yêu nơi đó Thiên Chúa hiên diện. Sứ điệp Tin mừng này phải được rao giảng bằng cả lời nói và gương mẫu nữa. Cách thông truyền tình yêu hữu hiệu nhất chắc chắn phải là cư xử đối đãi với tha nhân như là bạn hữu, dành cho họ đầy đủ lòng kính trọng đúng mức.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta vượt qua mọi điều chúng ta có thể tưởng tượng. Mỗi người trong chúng ta được Thiên Chúa yêu thương cách riêng từng người sâu xa mật thiết. “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em.” Chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa đâu, tự sức mình chúng ta cũng không thể nào dành được tình yêu ấy. Một chân lý nền tảng cần nhắc đến là chính Thiên Chúa đã đi bước trước, chọn gọi chúng ta, dẫn đưa chúng ta đi, yêu thương chúng ta từ buổi ban đầu, ngay trước khi chúng ta chào đời. Chính vì yêu thương chúng ta mà Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống trần gian để gánh vác tội lỗi chúng ta. Những phút gian truân thử thách, những khi mọi người như thù nghịch quay lưng với mình, và những lúc cay đắng chua chát ngập tràn con tim, chúng ta cần nhớ lại rằng tình yêu của Đức Kitô không hề giới hạn vào những người Chúa yêu thương mà thôi đâu, nên phần chúng ta, chúng ta cũng nên khép chặt cánh cửa tâm hồn đừng bao giờ để cho tư tưởng báo thù nào len lỏi xâm phạm vào tâm hồn chúng ta. Thay vào đó chúng ta nên hướng tâm trí chúng ta vào tình yêu diệu kỳ mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là đã mời gọi chúng ta làm con cái của Ngài; tham dự vào sự sống thần linh của Ngài. Giữ trọn lệnh truyền yêu thương sẽ giúp chúng ta bước vào đại gia đình Thiên Chúa. Vào lúc cuộc đời xế chiều, chúng ta sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán theo những yếu đuối lỗi lầm của chúng ta những theo mức độ tình yêu chúng ta đã trao cho tha nhân. Vì thế, chúng ta hãy yêu thương nhau.
60. Ở lại trong tình yêu và sinh hoa kết trái
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Qua bài ẩn dụ Cây nho (Ga 15,1-8), Đức Giêsu khẳng định một cách hết sức rõ ràng với các môn đệ rằng mọi sự tùy thuộc vào sự hợp nhất của các ông với Người.
Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong các ông (x. 15,7) và nếu các ông tuân giữ các điều răn của Người (15,10). Tất cả xuất phát từ Đức Giêsu: các lời và các điều răn. Nhiệm vụ các của môn đệ là đón nhận sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, các ông được liên kết với Người và có thể sinh hoa kết trái. Trong tương quan này, vị trí của Chúa Cha được Đức Giêsu diễn tả một cách độc đáo.
2.- Bố cục
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng bản văn hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (15,9-11);
2) Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (15,12-17).
3.- Vài điểm chú giải
- Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (9): Dịch sát là “Như (kathôs) Cha đã yêu mến (êgapêsen) Thầy, thì Thầy cũng yêu mến anh em (kagô hymas êgapêsa)”. Kathôs ở mệnh đề chính dùng với kai ở mệnh đề phụ thì dịch là “Như... thì cũng...”. Egô là chủ từ được nêu ra minh nhiên để nhấn mạnh, còn túc từ hymas được đặt liền với chủ từ cũng là để nhấn mạnh và cho thấy dây liên kết mật thiết với chủ từ egô. Hai động từ “yêu mến” (êgapêsen; êgapêsa) ở thì quá khứ aorist, diễn tả những biến cố rõ rệt và cụ thể trong quá khứ (“Chúa Cha đã yêu mến Thầy”), bây giờ chạm đến chúng ta (“Thầy cũng yêu mến anh em”).
- tình thương của Thầy (9): Công thức này (hê agapê hê emê) nói về tình thương của chủ thể (Đức Giêsu) đối với các môn đệ.
- như Thầy đã giữ các... và ở lại... (10): Kathôs và kai đều bắt đầu hai mệnh đề phụ, nên chỉ có thể dịch là “như... và...”. Động từ têreô ở thì quá khứ hoàn thành (perfect), với ý là lúc này đây, Đức Giêsu đã giữ trọn các điều răn của Chúa Cha.
- vì bạn hữu của mình (13): “Vì” (hyper) có nghĩa là “nhân danh”, “chiếu cố đến”. Cái chết của Đức Giêsu nhằm mưu ích cho chúng ta. Xem Lc 22,19-20; Rm 8,31; 1 Cr 11,24.
- cắt cử (16): Động từ Hy Lạp tithêmi có nghĩa là “đăt một người vào một nhiệm vụ”, đồng thời bảo đảm, cung cấp cho người ấy mọi phương tiện để thi hành nhiệm vụ đó thật hữu hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1 Cr 12,28; 2 Tm 1,11). Động từ này ở thì quá khứ aorist, để nói rằng Đức Giêsu chỉ cắt đặt một lần mà thôi, nhưng điều này có giá trị suốt đời người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì phải ở lại (menô) trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Ga). Đức Giêsu đã lệ thuộc Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy, thì Thầy cũng đã yêu mến anh em” (15,9). Hai động từ đều cùng ở một thì quá khứ (aorist) nói lên những biến cố rõ rệt trong quá khứ: Đức Giêsu đã từ Chúa Cha mà đến thế gian. Người vẫn ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống người môn đệ.
Chúng ta phải “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong tình thương của Cha Người bằng nhiều cách. Chúng ta cũng có thể “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình thương ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn; giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em” và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài niềm vui này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu ở lại trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Người để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhạn từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng bạn chỉ hiểu điều bạn đã nhận khi bạn tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
* Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17)
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Hội Thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Đức Giêsu bắt đầu nói “các điều răn” y như thể có nhiều điều răn (c. 10), rồi ngay sau đó lại nói “Đây là điều răn của Thầy”, y như thể chỉ có một điều răn mà thôi. Vậy thì có bao nhiêu điều răn? Các vị thầy thời ấy bảo rằng có 613 điều răn. Các tác giả Mc, Mt và Lc bảo là Đức Giêsu đã giảm thiểu lại còn hai: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người lân cận (Mc 12,28-31; Mt 22,36-40; Lc 10,25-27). Tác giả Ga thì khẳng định là hai điều này đã được giản lược thành một: tình yêu đối với người lân cận trong thực tế là cách thức duy nhất để bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa (Ga 4,20; x. Phaolô: Gl 5,14; Rm 13,8-10).
Thì quá khứ của “Thầy đã yêu thương anh em” (c. 9) phải được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu” (philoi, c. 14). Chúng ta chứng tỏ chúng ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (x. Gs 24,29; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15) và muốn họ làm việc với Người để thực hiện chương trình của Người.
Các kinh sư thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ “ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn tại; menô)” và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).
+ Kết luận
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quý báu nhất của trái tim Người; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Hội Thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Người đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Người cho Con của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục Sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã phát xuất ra và quy hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.
2. Từ “điều răn” được Đức Giêsu sử dụng 4 lần nhằm cho thấy rằng “yêu thương” là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai, chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
3. Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm “tôi tớ” Thiên Chúa, “làm việc cho Đức Giêsu”, mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành “bạn hữu” của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập, sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.
4. Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà tỏ ra ngạo mạn. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào tự phụ. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: “ở lại trong Đức Giêsu”, “ở lại trong tình yêu của Người” và “yêu thương nhau”. Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
61. Suy niệm của Lm. Đan Vinh.
Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo dụ ngôn cây nho và cành nho. Đức Giêsu nói về mối tương quan mật thiết giữa các cành nho là tình yêu thương giữa các môn đệ, các tín hữu với nhau. Như Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con thế nào, thì Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ như vậy, và người truyền cho các môn đệ cũng phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu thương và hy sinh chịu chết để cứu độ họ.
2) Chú thích:
- Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy, Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người (Ga 15,9-10):
+ Chúa Cha đã yêu mến Thầy: Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là thứ tình yêu chia sẻ và trao ban, và tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là thứ tình yêu tôn kính và vâng phục.
+ Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha, Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu như vậy.
+ Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy: Đây là lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Người kêu gọi họ hãy luôn kết hiệp với Người, và đừng bao giờ từ chối hay phản bội tình yêu của Người.
+ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Giữ các giới răn là một cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giêsu. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người.
+ Nếu Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc sống ở trần gian, Đức Giêsu luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38; 8,29; Dt 10,9). Người vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá (x. Pl 2,8). Nhờ tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, là bằng chứng cho thấy Đức Giêsu luôn “ở lại trong” tình thương của Người.
- Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,11-13):
+ Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan mà Đức Giêsu cảm nhận được là kết quả của việc Người đã tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, luôn làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông biết tuân giữ giới răn yêu thương nhau như Đức Giêsu đã truyền dạy.
+ Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn mà các môn đệ phải thi hành là yêu thương nhau không phải bằng tình cảm suông hay lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng tình yêu phải thể hiện qua việc tình nguyện hiến thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức Giêsu yêu thương và đã phó nộp mình chịu chết để đền tội thay cho các môn đệ và các tín hữu chúng ta.
+ Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương đòi phải hy sinh và cho đi. Món quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng sống của mình là dấu hiệu một tình yêu tột đỉnh. Đức Giêsu đã sẵn sàng chịu chết để đền tội thay cho môn đệ, thay cho mọi tín hữu chúng ta. Người cũng đ¨°i môn đệ phải noi gương Người để sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì anh em (x. 1 Ga 3,16; Pr 2,21).
- Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tối tớ nữa, vì tối tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,14-15):
+ Anh em là bạn hữu của Thầy: Các môn đệ là học trò sẽ được Đức Giêsu nâng cấp lên trở thành bạn hữu của Người, với điều kiện họ thực thi những điều Người truyền dạy.
+ Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình bạn đưa tới sự hiệp thông về tư tưởng, tâm tình vàsức sống. Đức Giêsu đã cư xử với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã bày tỏ cho các ông biết tất cả những gì Người đã đón nhận được từ nơi Chúa Cha.
- Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau (Ga 15,16-17):
+ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em: Ơn gọi trở thành môn đệ của Đức Giêsu không phải do các ông có công xứng đáng và chủ động chọn Người, nhưng chính Người đã tuyển chọn và kêu gọi các ông trước và các ông đã sẵn sàng đáp lại bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi làm môn đệ Người, như hai đôi anh em: Simon Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4,19.21).
+ Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giêsu đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng nhân cho Người (x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu và nhờ Ơn Thánh Thần tác động mà các ông đã đem lại nhiều hoa trái tốt là đưa nhiều người gia nhập vào Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41).
+ Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em: Trong sự hiệp thông với Đức Giêsu như cành nho liên kết với thân cây nho, thì những lời cầu xin nhân danh Đức Giêsu sẽ được Chúa Cha chấp nhận.
+ Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương nhau là một giới răn mới và quan trọng nhất nên được Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Tình yêu ấy là dấu hiệu người môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12):
- Câu chuyện: Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và hay đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với em. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho em. Khi tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
- Suy nghĩ và quyết tâm: Thì ra cậu bé tưởng lầm rằng khi cho máu, thì mình sẽ phải hy sinh mạng sống của mình cho em, vì bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu mà tiếp sang cho đứa em gái! Vì quá thương em và không muốn em chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã can đảm hy sinh mạng sống của mình để cho em cậu được cứu sống! Quả thật, trong trường hợp này: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ (Ga 15,13). Con Thiên Chúa đã yêu các môn đệ là chúng ta đến cùng, nên đã hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội thay và đã sống lại để cứu sống chúng ta để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để biểu lộ tình thương đối với các người thân yêu trong gia đình mình, noi gương Chúa Giêsu như cậu bé trong câu chuyện trên đã thể hiện?
2) Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy:
- Câu chuyện: Mục sư Mác-tin Lu-tơ Kinh (Martin Luther King):
Vào năm 1963, tại Thủ đô Wa-sinh-tân (Washington), 200.000 người đã lắng nghe vị mục sư da đen là Mác-tin Lu-tơ kinh, người đã đoạt giải No-ben Hòa Bình nói chuyện. Nội dung bài phát biểu của ông được cô đọng trong mấy lời như sau: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Gioóc-giơ (Georgia), con cháu của những người nô lệ và của những chủ nôsẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi sẽ trở về sống trong một đất nước mà chúng sẽ không bị đánh giá, đối xử bất công dựa trên màu da, nhưng là trên những công lao đóng góp xây dựng của chúng …”. Ong luôn cố gắng thực hiện ước mơ đó, dù gặp biết bao khó khăn trở ngại, ganh ghét đố kỵ. Đến năm 1968, Mác-tin lu-tơ Kinh đã ngã gục dưới làn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng chương trình hành động của ông vẫn được tiếp tục. Bởi vì ước mơ hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc của ông đã được hàng triệu người trên thế giới đồng cảm cùng quyết tâm thực hiện.
- Suy nghĩ và quyết tâm: Hiện nay tại môi trường bạn đang sống như: khu xóm, trường học, xí nghiệp, nhà máy, công sở, bệnh viện, nhà thờ…có sự kỳ thị về Nam Bắc, tôn giáo, cũ mới, nam nữ…hay không? Bạn sẽ làm gì để khắc phục tình trạng kỳ thị ấy, hầu xã hội của chúng ta ngày một công bình nhân ái hơn?
3) “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13):
- Câu chuyện: “Anh phải sống”.
Có hai vợ chồng nhà kia, hàng ngày cùng nhau vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm 4 miệng ăn: hai vợ chồng và hai đứa con thơ: Đứa lớn được 7 tuổi và đứa em mới 4 tuổi. Một hôm, vào buổi chiều, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tã. Sấm chớp ầm ầm và gió mạnh làm mặt sông dậy sóng. Chiếc ghe nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp, khiến hai vợ chồng bị văng ra khỏi ghe. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng một tay bám vào thân cây, còn tay kia cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể đều chết chìm, người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ để nuôi các con em nhé!”. Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống mà nuôi con!”, rồi chị đã tự buông tay ra cho chìm xuống để anh đủ sức bơi được vào bờ. Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sống lập bàn thờ và thành tâm khấn vái để cầu xin hương hồn người chết phù hộ cho ba bố con.
- Suy nghĩ và quyết tâm: Cao cả thay tình thương của một người vợ, người mẹ! Chị đã quên mình, sẵn sàng hy sinh chịu chết để cho chồng và con được sống! Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Còn bạn, bạn quyết tâm làm gì trong những ngày Mùa Phục Sinh này để chứng tỏ tình thương đối với các người thân yêu ruột thịt của mình?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Con hiểu rằng: Đạo của Chúa lấy giới răn Mến Chúa Yêu người làm căn bản. Nhưng trong thực tế, con đã chưa làm theo giới răn ấy. Lòng chúng con còn đầy sự ích kỷ vụ lợi, trong khi lẽ ra con phải vị tha bác ái. Gia đình chúng con chưa thực sự có tình yêu của Chúa, chưa hiệp nhất yêu thương nhau, trên thuận dưới hòa như Chúa đã dạy. Các bậc cha mẹ hay cãi lộn nhau, vợ chồng chưa quên mình và hy sinh cho nhau, con cái chưa hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em chưa thực sự tôn trọng lẫn nhau và chia sẻ tình thương cho nhau.
Vậy lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu dọi vào tâm trí chúng con. Xin ngọn lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm và biến đổi lòng chúng con ngày một quảng đại hơn. Xin cho tình yêu đích thực của Chúa luôn ngự trị và tỏa sáng trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết cảm thông chia sẻ đón nhận người khác và sẵn sàng quảng đại cho đi. Nhất là xin cho chúng con biết yêu thương đến độ dám hy sinh quên mình để noi gương Chúa xưa. Nhờ đó, ánh sáng vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trên chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xưa trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, Mẹ đã luôn hiện diện và kết hiệp mật thiết với Người. Mẹ đã cảm thông và chia sẻ với nỗi đau khổ của Chúa. Mẹ đã chấp nhận đi đường thương khó của Chúa, để cùng chết và cùng sống lại vinh quang với Người.
Giờ đây, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ: luôn sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong cuộc đời chúng con, thể hiện trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chết đi cho những sự ganh ghét hận thù, ích kỷ vụ lợi, đam mê lạc thú bất chính và các thói hư tật xấu. Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi vào mọi sinh hoạt của chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ cảm thông với nỗi đau khổ của người khác. Xin cho chúng con biết nở nụ cười cởi mở để giơ tay ra trước làm hòa với người không ưa chúng con, sẵn sàng đi bước trước đến với người chúng con chưa quen biết. Xin cho chúng con biết nhìn nhận người khác là anh chị em để quên mình mà phục vụ họ, nhất là đối với những người đang đau khổ thể xác cũng như tâm hồn. Xin Mẹ giúp con luôn ý thức rằng: yêu thương không phải chỉ là tình cảm suông, nhưng là hành động cho đi, là luôn hy sinh để làm cho người yêu được hạnh phúc. Xin cho chúng con biết yêu thương bằng tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã tặng cả mạng sống của mình, sẵn sàng chịu chết để chúng con được sống. Nếu chúng con thực hành tình yêu như thế là chúng con đang hòa nhịp với trái tim yêu thương của Chúa, đang làm chứng rằng ‘Thiên Chúa là Tình yêu”, và hy vọng chúng con sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa, và đưa được nhiều anh em về làm con cái Chúa với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
62. Chú giải của Noel Quesson.
Theo Thánh Gioan, vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu đã bày tỏ cho các bạn của Người viễn ảnh "Chương trình của Thiên Chúa trên thế giới”, và ý nghĩa của việc hiến dâng sự sống cho đến chết của Người.
Trong trang sách đáng yêu này của Thánh Gioan là một bài hát ca tụng tình yêu. Danh từ “yêu" "tình yêu" “ban”, được lặp lại 11 lần... và được dùng với từ “giới răn”. Đối với Đức Giêsu, niềm vui của người được yêu, đó là làm theo ý muốn của người yêu mình.
Ta không thể không để ý đến sự “sinh động" trong trang sách này: Như một bài hát nội tâm, những điệp khúc có cùng một trọng tâm xuất hiện, biến đi và trở lại như những đợt sóng vỗ vào bờ, như giòng thác từ trên đổ xuống từ Thiên Chúa rồi lại trở về nguồn là chính Người.
Trọng tâm của mạc khải này là: Niềm vui "Ta đã nói những điều này cho các con để chia sẻ ‘niềm vui của Ta’, và để các con được tràn đầy niềm vui".
Vào giờ Đức Giêsu bước từ thế giới này sang bên kia với Chúa Cha, Người nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Đây là những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giêsu, đêm trước người "ra đi". Đối với Đức Giêsu, tất cả bắt đầu trong huyền nhiệm của Thiên Chúa, trong vực thẳm vô hình là "Nguồn" của tất cả mọi sự. Nơi Thiên Chúa, không có sự cô độc không có buồn bã, nhưng có niềm vui yêu thương luôn hiện diện giữa ba Ngôi vị hằng yêu thương nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha yêu Chúa Con, và hai Đấng thông chuyển niềm vui yêu thương này cho Chúa Thánh Thần. Tình yêu vô hình đó, một ngày kia đã hiện thân trong một con người, là Giêsu thành Nagiarét. Huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, có thể ngắm nhìn và cảm nhận được tình yêu này đã làm xúc động trái tim một con người: "Chúa Cha đã yêu thương Thầy”.
Thầy cũng đã yêu thương anh em.
Nhưng giờ đây, trong con người Chúa Giêsu, mãnh lực tình yêu bắt đau lan ra khắp nhân loại. Thiên Chúa chia sẻ tình yêu của Người, nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không bao giờ được quên Chúa Giêsu đã hành động thế nào để yêu thương chúng ta.
Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.
Câu nói: "Thầy thương yêu anh em" của Chúa Giêsu hàm ẩn sự mê say. Một say mê tình yêu điên cuồng và vô biên: Người vẫn thương yêu những kẻ thuộc về mình còn ở trên trần gian, Người thương yêu họ đến tận cùng" (Ga 13,1). Tột đỉnh của tình yêu chính là Thập giá vinh quang. Đấy là vinh quang của Chúa Giêsu và niềm vui tình yêu vô tận.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết.
Chúa Giêsu dám nói rằng, Người xóa bỏ sự phân biệt giữa "Thầy và tôi tớ", giữa "Thiên Chúa" và "Con người". Từ nay chỉ còn là "Bạn hữu”. Không có gì giấu diếm nhau. Tình yêu có khuynh hướng chia sẻ để tất cả là của chung.
“Tất cả những gì 'Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết". Tình yêu khước từ sự "thống trị" người khác nhưng luôn tôn trọng và làm cho người kia "bằng" chính mình.
Qua những kinh nghiệm về tình yêu của con người, chúng ta biết rằng, hai người yêu nhau thường hướng đến sự trong sáng: tình yêu là trao đổi, là hiệp thông. Ta tự tỏ ra cho người kia biết. Chúa Giêsu đã nói: Tất cả những gì Thầy đã nghe được ở Chúa Cha, Thầy đã tỏ ra cho anh em biết. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã nói hết tất cả, không còn gì khác để biết về Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa đã nói tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa.
Đây là điều răn của Thầy: "Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em".
Giòng sông tình yêu của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy. Nước của giòng thác, khi rơi xuống đất, trải ra, bắn tung lên. Con người khi được Thiên Chúa "yêu thương" chính họ cũng phải trở nên tình yêu theo hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa: “như Chúa Cha thương yêu Thầy, Thầy thương yêu anh em” "Như Thầy thương yêu anh em, anh em hãy thương yêu nhau”.
Chúng ta đừng đọc lướt quá nhanh chữ "cũng như” huyền nhiệm này. Lạy Chúa, Chúa dẫn chúng con đi tới đâu? Chúa yêu cầu chúng con thương yêu đến mức nào? tình yêu của Chúa đã đưa Chúa đến đâu? "Không ai có tình yêu lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Yêu thương đến hy sinh mạng sống của chính mình. "Đây là Mình Thầy, bị trao nộp, đây là Máu Thầy bị đổ ra. Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, hãy làm việc này như chính Thầy" Giới hạn của tình yêu đó là trao tặng không hạn giới mức độ đo lường. Tình yêu là Thập giá. Thương yêu, thương yêu và yêu thương. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Yêu thương là giới răn của Chúa và dường như chỉ có một giới răn duy nhất đó. Giới răn này làm Chúa quan tâm nhất. Khi con yêu thương tha nhân, con làm điều mà Chúa đã luôn luôn làm. Khi yêu thương, chúng ta làm cho "Thiên Chúa ngự trị" và tạo được một khung trời đẹp cho con người. Tôi duyệt xét lại cuộc sống cụ thể của tôi dưới ánh sáng này. Người này, người kia đối với tới họ là ai? Tôi phải thương yêu ai? Tôi phải chịu trách nhiệm về ai? Ai đang mong đợi gì ở tôi? thái độ của tôi đối với người xung quanh, gia đình và đồng nghiệp thế nào?
Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy. Anh em là bạn hữu của Thầy. Nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Đối với nhiều người trong thời đại chúng ta, động lực tình yêu dừng lại ở sự đoàn kết với anh em. Những đôi vợ chồng, những gia đình, và các chủng tộc cần phải thương yêu lẫn nhau. Lúc bấy giờ ta có thể nói đến "chân trời tình yêu” (tình yêu theo một chiều ngang); vũ trụ của con người giới hạn ở chân trời trên mặt đất.
Đối với Chúa Giêsu, rõ ràng có một "chiều dọc thẳng đứng" kép đôi xuyên qua con người: Tình yêu từ trên cao Thiên Chúa đến với chúng ta, cũng phải trở về chốn cao sang, trở về với Thiên Chúa. Còn phải có một số rất đông người trở thành "Môn đệ của Chúa", nghĩa là những người ý thức được những gì đang diễn ra tuồng tình yêu ở nơi trần thế. Phải nhận ra tình yêu, phải nhận biết Thiên Chúa và yêu mến người. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu này: "Anh em hãy trung tín, và ở trong tình yêu của Thầy, anh em hãy là bạn hữu của Thầy. Những môn đệ của Chúa Giêsu, các Kitô hữu, là thành phần của nhân loại đang mến Chúa Giêsu một cách có ý thức: Trách nhiệm vô cùng lớn lao!
Nói cho cùng loài vật cũng thương yêu lẫn nhau. Nhưng con người trong vũ trụ chẳng những có khả năng sống năng lực tình yêu lớn lao này, mà còn biết được khả năng này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để tạ ơn Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu.
Cũng như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người.
Lúc bấy giờ vòng chuyển động đã hoàn tất. Chuyển động vĩ đại, phát xuất từ Chúa Cha, đã trở về với cội nguồn, và chúng ta có thể chiêm ngắm viễn tượng mà Chúa Giêsu đang có về con người. Một nhân loại được Thiên Chúa thương yêu. Một Thiên Chúa Cha. Một nhân loại huynh đệ, thương yêu lẫn nhau. Một nhóm môn đệ, một Hội Thánh biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Niềm vui của Chúa Giêsu là được Chúa Cha thương yêu và yêu thương anh em, là nhận ra Chúa Cha và yêu mến Người. Niềm vui phải là đặc tính của người Kitô hữu, đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu.
'Thế mà có một số người thường hỏi: trở nên người Kitô hữu thì có khác gì.
63. Chú giải của William Barclay.
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
(Ga 15,11-17)
Điều chính trong đoạn này là Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài biết, chính Ngài đã chọn họ. Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng bởi ân sủng và tình thương, Chúa đã kêu ghọi, chọn lựa chúng ta.
Từ đoạn này, chúng ta có thể liệt kê những điều tuyệt diệu khi được chọn và được gọi.
Chúng ta được chọn để vui mừng. Dù đường đi của Kitô hữu có khó khăn đến đâu trong cả hành trình lẫn mục đích, vẫn là con đường. Trong việc làm phải, làm đúng, bao giờ cũng có niềm vui. Kitô hữu là người luôn vui mừng. Kitô hữu u sầu là một điều mâu thuẫn. Thật sự Kitô hữu nào cũng là tội nhân, nhưng là tội nhân đã được tha thứ và cứu chuộc, niềm vui nằm ngay trong sự kiện đó. Làm sao không vui mừng khi chúng ta đang đi trên con đường sống với Chúa Giêsu.
Chúng ta được chọn để yêu thương. Chúng ta được sai đi vào thế gian để yêu thương. Nhiều khi chúng ta sống như thể được sai đến thế gian để tranh đua, cãi lẫy và đánh đấm nhau. Nhưng Kitô hữu đã được sai vào thế gian, để vừa sống vừa chứngminh cho người khác thấy ý nghĩa của tình yêu đối với nhau. Ở đây, Chúa Giêsu nêu ra một lời tự xưng quan trọng khác. Nếu chúng ta hỏi Ngài: Thầy lấy quyền gì mà đòi hỏi chúng tôi phải yêu thương nhau? Ngài đáp: Chẳng có tình yêu nào lớn hơn là phó mạng sống vì bạn mình, và Ta đã làm như thế. Nhiều người dạy người ta yêu mến lẫn nhau, nhưng cả cuộc đời họ cho thấy việc đó họ làm sau cùng. Chúa Giêsu ban bố một mệnh lệnh mà chính Ngài đã làm trước nhât.
Chúng ta được gọi để trở thành bạn của Chúa Giêsu. Chúa bảo Ngài không gọi các môn đệ là đầy tớ (douloi) nữa, mà gọi họ là bạn hữu. Câu này có ý nghĩa cho những nguơì nghe lần đầu tiên hơn là cho chúng ta ngày nay. Danh hiệu “douloi”, nô lệ, đầy tớ, tôi tớ của Chúa không phải là danh hiệu đáng xấu hổ, nhưng là một vinh dự lớn. Môsê là một douloi, nô lệ tôi tớ của Chúa (Đnl 34,5), Giôsê cũng vậy (Gs 24,29), Đa-vít cũng thế (Tv 89,20). Phaolô kể danh hiệu này là một vinh dự (Tt 1,1) và Giacôbê cũng vậy (Gc 1,1). Những nhân vật lỗi lạc nhất trong quá khứ hãnh diện khi được Chúa gọi là douloi (tôi tớ) của Chúa. Chúa Giêsu phán: “Ta còn có một điều cao trọng hơn cho các ngươi, các ngươi không còn là tôi tớ nữa mà là bạn thân của Ta”. Chúa Giêsu ban tặng một địa vị thân thiết với Ngài, mà ngay đến các nhân vật lỗi lạc nhất vẫn không biết, cho tới khi Ngài đến thế gian.
Nhưng ý niệm làm bạn với Chúa có một bối cảnh lịch sử. Abraham là bạn của Chúa (Is 41,80). Sách Khôn Ngoan 7,27 cho biết sự khôn ngoan làm cho người ta trở thành bạn của Chúa. Nhưng từ này còn được minh hoạ bằng một tập tục vốn có trong triều đình các hoàng đế Rôma lẫn các vua phương Đông. Trong các triều đình ấy, có một nhóm người được tuyển chọn, họ được gọi là bạn của vua. Họ được diện kiến nhà vua bất cứ lúc nào, họ được quyền vào cả phòng ngủ của vua lúc sáng sớm. Nhà vau thảo luận với họ trước khi họp bàn với các tướng lãnh và các quan chức. Các bạn của vua là những nhân vật có liên hệ gần gũi, thân cận nhất với vua.
Chúa Giêsu đã gọi chúng ta để làm bạn với Ngài và với Thiên Chúa. Đó là một đặc ân kỳ diệu. Chúng ta không còn phải đứng từ xa, nhìn về phía Ngài mà chờ đợi. Chúng ta không còn là những nô lệ chẳng có chút quyền ra mắt chủ, không như đám đông chỉ đứng xa nhìn thoáng bóng nhà vua đi ngang qua nhân một cơ hội hết sức hiếm hoi. Chúa Giêsu làm một việc lạ lùng: Ngài cho phép chúng ta được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn là người lạ cách biệt chúng ta, nhưng là bạn thân của chúng ta.
Chúng ta được gọi để làm bạn cộng tác với Chúa Giêsu. Ngài không chỉ gọi và chọn chúng ta để ban cho một loạt các đặc ân diệu kỳ, mà Ngài muốn chúng ta trở thành bạn cộng tác với Ngài. Nô lệ chẳng bao giờ là bạn cộng tác,người cùng hùn hạp làm ăn với chủ. Theo luật Hy Lạp, nô lệ được định nghĩa là một công cụ sống, chủ chẳng bao giờ trao đổi ý kiến với nô lệ, nô lệ bị sai bảo phải làm việc mà không được giải thích lý do. Nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Các bạn không phải là nô lệ mà là bạn cùng cộng tác với tôi. Tôi đã nói cho các bạn biết mọi việc. Tôi đã nói cho các bạn những gì Thiên Chúa Cha đã nói với tôi”. Chúa Giêsu dành cho chúng ta danh dự làm bạn cộng tác với Ngài, Ngài chia sẻ tâm sự với chúng ta, cho ta biết kế hoạch, mục tiêu và kỳ vọng của Ngài. Một sự lựa chọn quan trọng được đặt ra trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hoặc khước từ việc cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đưa thế gian trở về với Thiên Chúa.
Chúa chọn chúng ta làm sứ giả. Ngài phán: “Ta đã chọn các con để sai các con đi”. Ngài không muốn chúng ta sống đời ẩn tu, trốn trách thế gian. Khi một hiệp sĩ đến chầu vua, người ấy không muốn cả đời chỉ yến ẩm tiệc tùng và bầu bạn với vua, người ấy đã xin “Xin hãy phái thần đi làm nhiêm vụ để bệ hạ và toàn dân được ích”. Chúa Giêsu chon chúng ta, trước hết để chúng ta đến với Ngài, sau đó là để ra đi, đến với người thế gian. Đó là mầu mực và nhịp điệu hằng ngày của đời sống chúng ta.
Chúng ta được chọn để trở thành người truyền giáo. Ngài chọn chúng ta để ra đi và mang lại kết quả. Những kết quả vững bền qua mọi thời gian. Phương pháp truyền giáo là sống đời sống Kitô hữu, phương pháp đưa người ta đến với niềm tin là chỉ cho họ thấy kết quả của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu không sa chúng ta đi tranh luận để bắt người ta theo đạo, chũng không để doạ để họ theo đạo, nhưng thu hút họ đến với đạo Chúa. chúng ta phải sống sao cho đời sống đạt kết quả diệu kỳ, đến nỗi nhiều người khác cũng ao ước được như thế.
Chúa chọn chúng ta để trở thành con cái tràn đầy đặc ân trong gia đình của Chúa. Ngài chọn chúng ta để bất luận chúng ta nhân danh Ngài cầu xin điều gì, thì Chúa Cha sẽ làm cho. Một lần nữa chúng ta đối diện với một trong những khẳng định quan trọng, liên hệ đến việc cầu nguyện mà chúng ta cần thấu triệt. Nếu nghĩ không kỹ thì dường như câu này có nghĩa là Kitô hữu, người được chọn của Chúa Kitô, sẽ nhận được tất cả những gì mình cầu xin. Chúng ta đã đề cập đến vấn đề, nhưng cũng nên suy gẫm thêm lần nữa. Tân Ước có quy định một số luật lệ rõ ràng về vấn đề cầu nguyện.
a. Cầu nguyện phải bởi đức tin (Gc 5,15). Nếu chỉ theo hình thức, chiếu lệ, thói quen nhắc đi nhắc lại những lời đúng theo một công thức, ước lệ nào đó, thì lời cầu nguyện ấy sẽ không được chấp nhận. Khi lời cầu nguyện không có hy vọng thì không thể linh nghiệm được. Nếu xin Chúa thay đổi mình, mà không tin mình có thể thay đổi được, lời cầu nguyện sẽ chẳng ích lợi. Muốn cầu nguyện nơi tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa.
b. Phải cầu nguyện trong danh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể xin điều gì mà Chúa không đồng ý. Chúng ta không thể xin để nhận được gia tài bất hợp pháp của một người nào đó hay để được những điều bị cấm đoán. Chúng ta không thể xin cho một tham vọng nào đó được thành tựu nếu nó khiến người người khác bị tổn thương, hoặc thiệt hại. Chúng ta không thể nhân danh Đấng Yêu Thương để xin Ngài báo thù các kẻ thù của mình. Bất cứ lúc nào chúng ta cố gắng biến cầu nguyện thành điều giúp mình thực hiện các tham vọng riêng tư, để thoả mãn các ước muốn cá nhân, lời cầu nguyện sẽ không linh nghiệm, vì như thế không phải là cầu nguyện.
c. Cầu nguyện phải thuận theo ý Chúa. Mỗi khi cầu nguyện, trước hết phải nhận biết mình chẳng bao giờ hiểu biết hơn Chúa. Yếu tính của lời cầu nguyện không phải để thay đổi ý Chúa, nhưng để xin “Ý Cha thể hiện”. Vì vậy, lời cầu nguyện đích thực không phải là xin Chúa đem đến điều mình muốn, nhưng xin Ngài cho chúng ta sẵn sàng chấp nhận điều Ngài muốn.
d. Lời cầu nguyện không bao giờ được vị kỷ. Thoạt nghe qua thì tưởng Chúa Giêsu đưa ra một vấn đề hết sức dễ dãi. Ngài phán nếu hai người đồng ý với nhau để xin điều gì, Ngài sẽ ban cho (Mt 18,19). Chúng ta không nên hiểu câu này theo nghĩa đen nông cạn, vì như thế có nghĩa đơn giản là nếu bạn “động viên” để nhiều người cùng cầu xin một điều gì đó, thì việc đó sẽ xảy ra. Nhưng câu ấy có nghĩa là: Khi cầu nguyện, không nên chỉ nghĩ đến các nhu cầu của riêng mình mà thôi. Thí dụ đơn giản nhất là vào ngày nghỉ, người công nhân chắc phải xin trời nắng tốt, trong khi có lẽ bác nông dân lại xin trời mưa. Khi cầu nguyện, chúng ta không nên hỏi, “điều này có lợi gì cho tôi?” mà phải hỏi “Việc này có ích cho tất cả mọi người không?”. Sự cám dỗ lớn nhất trong khi cầu nguyện là dường như chỉ có vấn đề của mình là quan trọng, còn vấn đề của người khác thì chẳng cần quan tâm tới. Một lời cầu nguyện như vậy sẽ không thể linh nghiệm được.
Chúa Giêsu đã chọn chúng ta để trở thành những thành viên được đặc ân, ưu quyền trong gia đình Chúa. Chúng ta có thể và nên dâng mọi sự lên cho Chúa trong khi cầu nguyện. Nhưng không nên tìm câu trả lời theo sự hiểu biết hạn hẹp, hay theo ước muốn bất toàn của mình, mà phải chấp nhận câu trả lời của Chúa theo sự khôn ngoan và tình yêu trọn vẹn của Ngài. Càng yêu mến Chúa chúng ta càng vâng phục ý Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam