Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1379449

HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHA, CON VÀ THÁNH THẦN

HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu:

Đây là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra.

Thực vậy, trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về “Emmanuel”, “Thiên Chúa với ta” (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào Đức Kitô và họ sấp mình thờ lạy người”.

Trong đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuật lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ: “Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền giáo cho “tất cả các dân tộc”, và người long trọng tuyên bố với họ: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Radermakers chú giải: “Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đọan mở đầu; đó là một bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời gian và không gian” (Au fil de l’évangile selon saint Matthieu, lnstitut d’etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).

Một đoạn kết dưới hình thức mở ra.

Sau phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ không phải ở Giêrusalem, thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là “Galilê” bị khinh miệt, “nơi qui tụ các dân”. (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới dân ngoại.

“Cũng thế Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức tin, để lên đường đi tới “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa là Giáo Hội cho trần gian”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức Giêsu sẽ định rõ sau này” (“Cahiers-evangile” số 9, trang 6).

Nơi mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là “ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa.

Claude Tassin chú thích: “Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời ngọn núi biến hình nơi vinh quang Con Người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa” (Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303).

– Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng kính trọng mang màu sắc tôn giáo và phụng vụ như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và Maria, mẹ Người (2,2-8.1 1), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25).

Tuy thờ lạy nhưng họ vẫn còn “hoài nghi’, niềm hoài nghi, theo Jean Radermakers, “là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động”.

– Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần và các môn đệ sấp mình thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển được tôn vinh, được trao quyền tối thượng xét xử toàn thế giới (Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền này trở thành hiện thực.

Những lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn trong sứ mệnh của người; một sứ mệnh từ nay Người tiếp tục Giáo Hội.

+ “Hãy đi…! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các “chiên lạc nhà Israel”. Từ nay, Người phá huỷ biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh người” (Mt 12, 18 -21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn kết, Tin Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát ấy cho Giáo Hội của Người.

Claude Tassin nhận xét: “Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không phân biệt. Vì Đức Giêsu có “mọi quyền năng”, nên mọi người được mời gọi đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì? Các môn đệ hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; nhũng ai cảm thấy giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi cuộc đời mình. Hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác, “dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn” của Đức Giêsu gồm tóm trong luật duy nhất: tình yêu” (O.C., trang 304).

+ “Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha: và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng đoàn những người, nhờ bí tích rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ đâm rễ sâu vào một gắn bó chung “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Tạp chí “Célébrer” số 269 nói: .”Công thức nhân danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân ước. Những bản văn khác nói về phép rửa “nhân danh Đức Giêsu” hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần”. Tuy không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh Matthêu phụ trách. Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa:

+ “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J. Radermakers nhận xét: “Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí tích Rửa tội và về phương diện nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý không gì khác hơn là Tin Mừng biến thành hành động” (Sđd, trang 365).

+ “Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn ở đoạn kết Tin Mừng, Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tên người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Potel kết luận: “Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội ở mọi nơi, cho đến tận cùng thời gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: khi có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, Thầy sẽ ờ giữa họ, (Mt 18,20). Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian” (“Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, Centúrion, 1994, trang 516).

BÀI ĐỌC THÊM

Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội (Mgr. L.Daloz, “Nước Thiên Chúa đã đến gần”, Centurion -duculot, tr. 385).

Hình thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: “Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội. Không có ba yếu tố đó sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa: nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua: “Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với ta”.

Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho ta biết Người ở “với ta”. (Báo Fêtes et Saisons số 496, “Ba Ngôi Thánh”, trang 31).

Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người sáng tạo, hay đúng hơn từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu nhiệm như thế – Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế giới mà người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên Chúa Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế. Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô vàn khác biệt và siêu việt dường nào.

Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết Người ở “với ta”. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa ta trần gian. Như cuộc đời Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần gian và với anh em ta; hình ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.

Được mời gọi đến khám phá Thiên Chúa hàng sống và chân thật. (Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf trang 50-52).

Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng ta. Nếu ta có đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người, cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống được yêu như những người con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con riêng của Người.

Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con” (Rm 8,22), nhưng vẫn “giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát” (Rm 8,20-21).

Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời, qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải thoát khỏi sự dừ và sự chết (x. Rm 8, 22-23) .

Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu đó .

Đứng trước mạc khải về chiều sâu của Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức nhưng yếu tố cơ bản của kinh “Credo” là không đủ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Người, nhận biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô.

Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều cần đến Giáo Hội nhu cầu nơi để đọc chăm lo bú mớm, nơi cảm nghĩ đức tin bén rễ. Thực vậy, Giáo Hội không ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không chỉ là một nhóm các bạn hữu Đức Kitô hoặc hiệp hội nhưng người tưởng nhớ đến Người.

Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là “bí tích trong Đức Kitô. Nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium 1).

Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với họ.

CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN -CHÚA BA NGÔI- Năm B

CHÚA GIÊSU GẶP GỠ VÀ SAI PHÁI CÁC MÔN ĐỆ NGÀI- Chú giải mục vụ của Claude Tassin

Các phụ nữ đã chuyển giao hoàn thành xong sứ điệp bởi vì hiện giờ các môn đệ đang tụ họp cho cuộc gặp gỡ tối hậu đầy trang trọng. Chúng ta hãy cố gắng hiểu cho được tình cảnh của Matthêu khi ông đặt bút soạn thảo chương kết này. Các truyền thống mà Matthêu cậy dựa đều phù hợp với nhau về sự kiện Đức Giêsu đã hiện ra ở Galilê; tuy nhiên không một truyền thống nào đã bảo tồn các trình thuật về những cuộc hiện ra ở Galilê này. Bỏ qua một bên mọi tưởng tượng, tác giả Phúc Âm phải xây dựng sứ điệp mình dựa trên các mô hình Kinh Thánh về việc soạn thảo (a) và trên các chất liệu được Giáo Hội ông nhận biết (b).

1) Ở đây Matthêu sử dụng nhiều mô hình, tuy nhiên lược đồ nền tảng là lược đồ các sắc chỉ vương triều được xây dựng như sau:

Ta đã nhận lãnh quyền hành như thế.

Vậy Ta truyền…

Như vậy các lời nói của Đấng Phục Sinh được soạn lại như sau:

a) “Mọi quyền hành đã được ban cho Ta” (c.18)

b) Vậy, các con hãy đi… (c.19-20a)

Sự lựa chọn này không phải là ngẫu nhiên: Kinh Thánh Hy Bá Lai mà tác giả Phúc Âm sử dụng đã kết thúc chính xác (2Sb 36,23) bằng một sắc chỉ vương triều giống thế, sắc chỉ của vua Cyrus. Hình bóng của Đấng Mêsia trong truyền thống Do thái thời xưa (x. Is 45,1). Như thế, Matthêu đã mở đầu tác phẩm của mình bằng cách nói về “Sách Sáng Thế” (1,1) và kết thúc bằng lời ám chỉ đến câu cuối cùng trong Cựu Ước: Lịch sử Chúa Giêsu hoàn tất tất cả lịch sử Thánh Kinh.

2) Về mặt chất liệu, hầu như ở mỗi lời trong 5 câu này, đều thấy có can dự đến một bản mục lục gồm những chủ đề lớn được Matthêu khơi động dọc suốt Phúc Âm của ông. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong một Giáo Hội đầy sợ hãi, nơi mà các thành viên gốc Do Thái vẫn còn nghĩ rằng phải tập trung chú tâm mình “các con chiên lạc nhà Israel”, có thể là các Kitô hữu khác, dày dạn hơn, tự nuôi sống mình bằng khẩu hiệu này “kêu gọi dân ngoại (bất cứ ai) trở thành môn đệ; tháp nhập họ (ngay cả nhóm người của Gioan Tẩy Giả) bằng phép Rửa tội Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chia sẻ cho họ tất cả những gì Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta” (c. 19-20). Đây chính là chương trình của Giáo Hội! Trong đoạn kết, Nhân Danh Chúa Kitô, Matthêu đã đưa ra lý do bênh vực cho sự bảo trợ chí nguyện này và hun đúc lại lòng can đảm của những kẻ đang co rúm lại. Tuy nhiên, để kết thúc, cần phải nhớ lại chính bản văn của tác giả Phúc Âm, bản văn ấy còn sung mãn hơn cả những nỗ lực làm sáng tỏ này.

Các câu 16-17 cung cấp bức khung những lời cuối cùng của Đấng Phục Sinh. Như Luca thì hẳn đã diễn tả rằng nhóm tông đồ bây giờ là nhóm Mười Một (tông đồ). Đang khi đó, trung thành với chính mình, Matthêu lại nói đến mười một môn đệ: vào lúc được Chúa sai phái, họ vẫn luôn luôn là các “học trò”, đây quả là một ý tưởng quan trọng đối với các khái niệm thừa sai của tác giả Phúc Âm.

Galilê biểu tượng thế giới dân ngoại, mặc lấy trọn vẹn ý nghĩa của nó qua việc Chúa sai phái các môn đệ đi toàn thế giới, điều này sắp sửa dội vang. Tuy nhiên, chính xác hơn cuộc gặp gỡ đã xảy ra ở “trên núi”. Tựa như một chuỗi nối tiếp quyện vào nhau, người ta thấy lại ngọn núi nơi trước đây ma quỷ đã phô bày cho Chúa Giêsu mọi vương quốc của trái đất, ngọn núi “Bát Phúc” nơi Chúa Giêsu đã công bố Hiến Chương Nước Trời và ngọn núi “biến hình” nơi vinh quang của Con Người từng toả sáng, và trên tất cả những thứ đó là bóng hình ngọn núi Nêbô (Đnl 34) nơi Môsê nói lời vĩnh biệt khi dân tộc ông sắp bước vào miền đất hứa.

Quang cảnh cuối cùng trước đây các môn đệ để lại là quang cảnh họ bỏ trốn chạy (26,56); còn giờ đây họ đang phủ phục trước Chúa Giêsu; “Tuy nhiên, vài người vẫn còn hồ nghi” nên vẫn chưa thực hiện được hành trình đức tin dẫn họ đến niềm vui không pha tạp (x. 28,8). Mô hình ngờ vực là một yếu tố truyền thống thường thấy trong các trình thuật Chúa Phục Sinh hiện ra, yếu tố này lẽ ra buộc Đấng Phục Sinh phải giúp các môn đệ nhận ra Ngài cũng như Ngài phải trấn an họ, tuy nhiên ở đây Chúa Giêsu đã không hề làm như thế. Ngày xưa Ngài đã từng nói với Phêrô “Hỡi kẻ kém lòng tin, tại sao ngươi lại nghi ngờ?” (14,31). Đức tin vẫn mãi mãi đòi ta phải liều và chính trong ‘hành động’ thừa sai (c.19-20) các môn đệ mới có thể chiến thắng nổi những ngờ vực của họ.

Ở câu 18, người ta nhớ lại vào cuối Kinh Thánh Hy Bá Lai, vua Cyrus đã tuyên bố: “Chúa là Thiên Chúa, Ngài đã ban cho tôi tất cả vương quốc trên mặt đất” (2Sb 36,23). Và lớn lao hơn chính quyền năng trên trời được thông ban cho Con Người mầu nhiệm trong sách Daniel: “Người được Thiên Chúa ban cho mọi quyền hành… mọi dân tộc sẽ phụng sự Người… quyền hành muôn thuở” (Dn 7,14). Ở đây không hề thấy một quang cảnh hùng vĩ, tuy nhiên qua bức tranh cuộc phán xét cuối cùng (25,31) được gợi lại Chúa Giêsu quả quyết rằng kể từ nay Thiên Chúa đã trao ban cho Ngài vương quyền hoàn vũ này.

“Vậy” (c.19) “các ngươi hãy đi chiêu mộ môn đồ từ mọi dân tộc”. Chúa Giêsu không nhấn mạnh đến từ “Đi” cũng không nhấn mạnh đến sứ mệnh chinh phục mặt địa lý mà nhấn mạnh đến việc mở lòng đón nhận tất cả mọi nhóm người không phân biệt. Bởi vì Chúa Giêsu nắm trọn quyền hành, cho nên mọi người đều được mời gọi sống dưới quyền hành của Người. Đối với Matthêu, sứ mệnh là gì? Là các môn đệ đi chiêu mộ kẻ khác trở thành môn đệ, là mọi người nam cũng như nữ sau khi cảm nghiệm rằng lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc hiện sinh của họ sẽ đem chia sẻ kinh nghiệm đó với kẻ khác “dạy cho họ giữ tất cả mọi huấn lệnh của Chúa Giêsu” được tóm gọn lại trong chỉ một lề luật yêu thương.

Tuy nhiên sứ mệnh đó không phải là sự triển khai một ý thức hệ, dù rằng cao đẹp mấy đi nữa. Nó không ngừng đòi hỏi phải tạo ra một cộng đoàn, gồm những người; qua nghi thức Rửa Tội, muốn ghim chặt mối dây liên đới với nhau trong một tuỳ thuộc chung: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (c.19). Đây là công thức mầu nhiệm Ba Ngôi duy nhất trong Tân Ước nói về phép Rửa Tội “Nhân danh Chúa Giêsu” hay “Trong Thánh Linh”. Danh xưng Ba Ngôi ở câu 19 chắc chắn phát xuất từ Phụng Vụ Thánh Tẩy đang thịnh hành trong Giáo Hội của Matthêu. Tác giả Phúc Âm sẵn sàng chấp nhận danh xưng này và qua đó ông đưa độc giả mình về lại với tất cả những gì họ đã học biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh suốt những trang Phúc Âm của ông.

Trong một cách thức nào đó, Đấng Phục Sinh đã kết luận như sau: “Các ngươi còn ngờ vực”, vậy hãy liều thân đi phục vụ mọi người. Khi thấy họ quay về với đức tin bấy giờ các ngươi sẽ khám phá rằng thực sự “mọi quyền hành đã được ban cho Ta” và nhất là các ngươi sẽ khám phá ra rằng chính Ta, Ta luôn ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế (c.20). Suốt dòng lịch sử, Đấng Phục Sinh vẫn luôn mãi là Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23): Như thế phần đầu và phần cuối Phúc Âm đã phúc đáp cho nhau, ngoài ra dòng Phúc Âm đầu tiên (1,1) ghi nhận: “Các nguồn gốc”; sự khởi nguyên còn dòng Phúc Âm cuối cùng nhắc đến “Thế mạt” (28,20): Bản thân Chúa Giêsu thâu tóm toàn lịch sử nhân loại; Tuy nhiên kể từ “ngày đầu tiên trong tuần” (28,1) tức buổi sáng Phục Sinh, lịch sử này đã tháp nhập vào đó sự dấn thân và chứng ngôn của Kitô hữu.

home Mục lục Lưu trữ