Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1378241

HÃY THEO TÔI

Hãy theo Tôi

(Suy niệm của Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 9:51-62 khởi đầu phần thứ hai của Tin Mừng Luca.

Trước đây, Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng tại Galilêa. Người đã tỏ mình ra như là Đấng Cứu Thế, Đấng Kitô (9:18-24), Con Thiên Chúa.

Bây giờ, Người làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc thương khó do vai trò cứu thế của Người đòi hỏi.

Hành trình nầy bao gồm 10 chương (9:51-19:27).

Ở câu 19:27-28, Luca ghi nhận là Chúa Giêsu đã đến Bêthphagê và Bêthania, cạnh núi Cây Dầu. Từ đó Nguời sai hai trong số các môn đệ đi đem về cho Người con lừa con, để Người vào thành Giêsuralem và thi hành sứ vụ cuối cùng của Người trong thành nầy (19:28-31:38).

Hành trình lên Giêrusalem có thể chia làm ba giai đoạn, dựa trên ghi nhận “Người lên Giêrusalem” (9:51-13:21; 13:22-17:10; 17:11-19:27).

Trong phần đầu của giai đoạn một, Luca nói đến việc tuyển chọn và sai đi các môn đệ (9:51-10:24).

Đoạn 9:51-62 gồm hai đoạn kế tiếp nhau: - Câu chuyện khi đi ngang qua làng Samaritanô (9:51-56); - Những đòi hỏi nơi người theo Chúa (9:57-62).

Chúa Giêsu đã ở Galilêa để chữa bệnh và giảng dạy (x. 9:10b). Giai đoạn nầy đã hoàn tất. Sứ vụ của Người chuyển sang hướng khác là lên Giêrusalem (9:51-56).

Để đánh dấu việc khởi đầu nầy, Luca dùng cách nói trọng thể: “khi đã đến ngày” (x. Cv 2:1), “hướng mặt đi lên Giêrusalem”. Động từ “đi lên” và “mặt Người” (cc. 51-53) được dùng kết hợp với nhau cho thấy hành vi có tính cách quyết liệt và nhắm đạt đến đích. Anal#mpsis “đưa lên” vừa có nghĩa là “lên trời”, vừa là “ra đi”. Trong Kinh Thánh chữ nầy chỉ xuất hiện duy nhất ở đây. “Ngày của Chúa được đưa lên” có nghĩa không chỉ là ngày Người sẽ chịu chết trên thánh giá, mà còn là ngày Người được chỗi dậy và lên trời. Tất cả những sự việc nầy sẽ xảy ra cách liên kết với nhau.

Để đi lên Giêrusalem, họ phải đi ngang qua Samaria (9:51; x. Mt 19:1-2; Mc 10:1).

Chỉ Luca ghi lại sự kiện xảy ra tại một làng nào đó ở Samaria: sự không hiếu khách và phản ứng của hai môn đệ Gioan và Giacôbê.

Có nhiều lý do để đặt chú tâm vào hai môn đệ hơn là sự không hiếu khách: 1- câu chuyện nầy nằm trong văn mạch liên quan đến việc tuyển chọn và sai các môn đệ đi. Ngay sau đoạn nầy là những đòi hỏi dứt khoát nơi người môn đệ.

Câu chuyện một người nào đó nhân danh Chúa Giêsu của họ mà trừ quỷ (x. 9:49-50) và câu chuyện nầy muốn nêu lên phần nào cá tính và khuyết điểm của họ, cũng như những người sẽ đến đi theo Chúa (x. 9:57-62). 2- Chúa Giêsu sẽ dùng những cơ hội nầy mà chỉ dạy và đòi hỏi họ thay đổi. 3- “Samaria” xuất hiện 2 lần trong tin mừng Luca với cái nhìn tích cực: hình ảnh người Samaritanô nhận hậu (10:33), người phong cùi biết ơn (17:16). Do đó, có thể nói Luca dùng sự kiện nầy như là khung cảnh mở đầu cho hành trình, và cũng là cơ hội cho việc bộc lộ cá tính của các môn đệ của Người. Người Samaria không hiếu khách vì họ biết mục đích hành trình của Chúa Giêsu (9:52).

Liên kết với đoạn trước, đoạn nầy cũng nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu “trên đường đi” lên Giêrusalem (c.57a).

“Trên đường đi” diễn tả cách tượng hình sự vận chuyển không ngừng tiến về phía trước. Hình ảnh nấy gắn liền với chủ đề “đi theo” của cả đoạn nầy (cc. 57.59.61). Đoạn nầy gồm ba cuộc gặp gỡ và đối thoại (9:57-62); trong khi Matthêô chỉ ghi lại hai (x. Mt 8:18-21).

Chương 9 nầy nói nhiều lần nhất đến việc “đi theo” Chúa: dân chúng (9:11), những ai muốn (9:23), người không theo Chúa mà trừ quỷ (9:49), và ba người trong đoạn nầy (9:57.59.61). Hầu hết việc “đi theo” Chúa đều đặt ra những điều kiện và đòi hỏi. Đòi hỏi “vác thánh giá” (9:23) là đòi hỏi tổng quát và căn bản nhất. Ba đòi hỏi tiếp theo là cụ thể tùy theo từng cá nhân.

Trong cuộc đối thoại với người thứ nhất (9:57-58), Chúa Giêsu nói rõ là Người không có một chỗ ở nào cả. Hình ảnh cái hang của con cáo và tổ ấm của con chim, và nơi tựa đầu, chỉ một nơi cư ngụ. Nơi cư ngụ là đòi hỏi căn bản nhất không chỉ của con người, mà cả muôn loài trên mặt đất. Ai cũng lo lắng cho chuyện nầy trước tiên. Có được nó, chính là sự an toàn (x. 16:9). Cụm từ “Người Con của Nhân Loại” trong bối cảnh “đi lên Giêrusalem” ám chỉ đến cuộc thương khó. Người “không có nơi tựa đầu”, vì phải đi cho đến khi hoàn tất sứ mạng. Như thế, đi theo Người “trên đường” là tiến về phía trước vì sự cấp bách của sứ mạng, và bỏ lui đằng sau mọi sự an toàn. Chúa Giêsu sẽ chỉ dạy cho các môn đệ thái độ không dính bén khi vào nhà nào đó khi họ được sai đi: ở lại, ăn uống hay ra đi khỏi nhà đó (x. 10:1-12). Sứ mạng là quan trọng, chứ không phải nơi cư ngụ. Chúa Giêsu là nơi cư ngụ và sự an toàn của người môn đệ.

Cuộc đối thoại thứ hai gồm một lời mời gọi (c. 59a), một lời yêu cầu bị từ chối (cc. 59b-60a), và một lời sai đi (9:60b). So với Matthêô, Luca thêm câu “ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (c. 60b), tạo nên sự song song với lời yêu cầu “ra đi chôn cất cha tôi”. Luca dùng đại danh xưng “tôi”(c. 59) và “anh” (c. 60) để nhấn mạnh là cả hai lời yêu cầu của người nầy lẫn lời sai đi của Chúa Giêsu đều quan trọng, mạnh mẽ và cấp bách; và người nầy phải chọn lựa. Chữ “trước” không chỉ có nghĩa về thời gian, mà còn có nghĩa “ưu tiên”, “trước mọi sự”, nhất là khi chữ nầy được dùng với “Nước Thiên Chúa” (x. Mt 6:33). Như thế, có thể hiểu là người nầy đặt tương quan gia đình ưu tiên hơn lời mời gọi của Chúa, “Hãy theo tôi” (c. 59).

Cần khẳng định là lời từ chối của Chúa Giêsu không nghịch với lề luật dạy thảo kính cha mẻ, nhất là đối với người chết (x. Tobia 1:17; 4:3; 6:15; Sirach 7:33; 22:11-12; 38:16-23).

Không thể hiểu câu Chúa nói theo nghĩa đen, vì người chết không thể đi chôn kẻ khác. Khi nói với các môn đệ về sự chọn lựa tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình, Chúa Giêsu thường dùng cách nói phóng đại “Ai đến cùng Tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả sự sống đời nầy, không thể là môn đệ của Tôi” (14:26). Điều nầy chỉ có nghĩa là phải yêu mến Người hơn tất cả (x. Ez 24:15-24).

Cũng phải được hiểu tương tự như thế trong trường hợp nầy. Ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa (x. 8:1; 9:2.11; 10:9) thì ưu tiên hơn ra đi chôn cất người chết, dù đó là cha mình.

Kết cấu của cuộc đối thoại thứ ba tương tự như cuộc đối thoại trước (9:60-61). Ở đây Luca đề cập đến tương quan gia đình rộng hơn, không chỉ là với “nơi cư ngụ” (c. 58), “cha” (c. 59), mà “những người trong nhà” (c. 61).

Apotassomai có nghĩa là “giã từ”, và “bỏ đi”. Như người trước, người nầy đặt những tương quan nầy “trước” tương quan với “Nước Thiên Chúa”. Hậu cảnh của câu trả lời của Chúa Giêsu là câu chuyện Êlisêô đang cày với 12 đôi bò (1V 19:20).

Ý nghĩa chính của lời khôn ngoan nầy: “Đã tra tay vào cày” là đã khởi đầu việc cày. “Nhìn lại đàng sau” theo nghĩa đen là nhìn những luống đất đã cày. Động từ “nhìn” ở thể phân từ hiện tại chỉ hành động đang diễn ra. Vì “đang nhìn” đàng sau, thì không thể tiến lên phía trước và cày ngay hàng thẳng lối. Do đó, chính việc “đang nhìn lui đàng sau” nầy cản trở cho mục đích của việc đi theo Chúa là loan báo Nước Trời.

Euthetos, có nghĩa là “hữu dụng”, “thích hợp” như hình ảnh hạt muối (x. 14:35). Vậy, người không đặt ưu tiên cho việc đi theo Chúa thì không thích hợp cho việc rao giảng Nước Trời.

Tâm điểm của đoạn nầy là đặt ưu tiên tương quan của người môn đệ với Chúa Giêsu trên mọi sự.

 

46. Dân làng Samaria không đón tiếp Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

Cho tới nay Đức Giêsu chỉ thực sự thực thi tác vụ của Người ở Galilê. Bắt đầu từ đây, trong suốt mười chương (9,50- 19,20), chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem. Lên Giêrusalem là một khúc ngoặt, là một quyết định tối quan trọng đối với Người. Bởi thời gian mà Chúa Cha ban cho Người, để thực hiện công trình tại thế sắp kết thúc và việc Đức Giêsu ra đi đã gần kề. Đức Giêsu lên Giêrusalem để kiện toàn sứ vụ. Như Êlia, ông chỉ được rước về trời sau khi đã hoàn tất sứ vụ (2V 2,9-11). Đức Giêsu cũng chỉ được siêu thăng hay được rước về trời sau khi đã chịu đau khổ và phải chết. Ý thức rõ điều đó, nên khi đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã phải can đảm, phải nhất quyết. Đúng hơn Ngài phải rắn khuôn mặt lại, làm cho khuôn mặt chai cứng, để vượt qua nỗi sợ hãi. Giống như người tôi tớ Giavê, Isaia loan báo trong bài ca thứ ba (Is 50,7).

Lên Giêrusalem, Đức Giêsu không chỉ đi một mình. Cùng đi có Nhóm Mười Hai, bảy mươi hai môn đệ, các cảm tình viên, các bà đạo đức... Bởi thế, Đức Giêsu sai mấy sứ giả đi trước, họ có phận sự tìm lương thực, sắp xếp chỗ ở. Trong số những người được sai đi, có Giacôbê và Gioan. Họ lên đường vào một làng người Samaria, chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem.

Giữa người Dothái và người Samaria, có những xung khắc trên bình diện quốc gia và trên bình diện tôn giáo. Người Samaria là miêu duệ của các bộ lạc Đông Á, đến định cư vùng này vào thời vương quốc phương Bắc của người Dothái, bị người Assyri chiếm đóng năm bảy trăm hai hai trước công nguyên, cũng là miêu duệ của những người thổ dân bản xứ. Họ đã theo Dothái giáo thờ Đức Giavê, nhưng đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Họ khác với dân Dothái về nhiều điểm trên bình diện tôn giáo. Chẳng hạn, ngoài Đức Giavê họ còn thờ các thần riêng, có bộ lạc còn giết con trai, để tế thần riêng của mình. Người Dothái khinh dể người Samaria, cho họ như một dân nửa lương nửa giáo, tránh tiếp xúc với họ (Ga 4,9). Nhiều lần vì thù ghét, giữa hai dân tộc đã có những cuộc tấn công lẫn nhau, có lần người Samaria đã quẳng xương các loài vật vào đền thờ Giêrusalem, để đền thờ bị ô uế. Nay họ nghe biết Đức Giêsu lên Giêrusalem để dự lễ, họ đã chống đối và từ chối đón tiếp Người. Nếu Đức Giêsu không lên Giêrusalem, chỉ đến với họ, họ đâu có từ chối. Họ đã chẳng mời Ngài ở lại hai ngày, khi Ngài gặp một phụ nữ của họ ở giếng Giacob đó sao?

Trước sự từ chối đó, Giacôbê và Gioan, biệt danh là con của sấm sét, đã nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" Êlia đã hai lần xin lửa từ trời xuống, thiêu hủy hai sỹ quan và năm mươi binh lính của vua Akhátgia, đến gặp nhà tiên tri đang ngồi trên núi đòi ông xuống để hỏi xem vua có khỏi bệnh hay không? (2V 1,10). Giờ đây, Giacôbê và Gioan cũng muốn xin Đức Giêsu cho các ông thực hiện điều đó, để thiêu huỷ dân làng Samaria, mà các ông cho là "hỗn láo" dám khước từ đón tiếp Đấng Messia của Thiên Chúa. Giacôbê và Gioan tưởng, làm như thế là đẹp ý Thiên Chúa và được Đức Giêsu tán đồng. Các ông lầm, Thiên Chúa đâu hẹp hòi như các ông nghĩ. Ngài là Thiên Chúa toàn năng nhưng không thích trừng phạt ai cho dù họ xúc phạm đến Ngài. Ngài là người cha nhân từ, một người mẹ hiền dịu, sẵn sàng chờ đợi tội nhân hối cải. Thiên Chúa không trừng phạt, Người luôn tha thứ. Đức Giêsu không đến để lên án, nhưng để cứu độ (Lc 19,10). Bởi thế, Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

 

47. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG

Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này, soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.

Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã

Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho phép.

Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước Thiên Chúa.

Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.

Con người không có chỗ tựa đầu

Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo, nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.

Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài “khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.

Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động không?'

Đức Kitô giải phóng chúng ta

“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”. Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự do với tất cả.

Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ; những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt được khi cơn nghiện đến).

Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người; Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và ách nô lệ của tội.

Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức Yêsu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tại sao Đức Yêsu lại đòi hỏi những người theo Ngài như vậy?

2. Bạn có hài lòng với cuộc đời của bạn không? Nếu cho bạn chọn cuộc đời của Đức Yêsu và cuộc đời của bạn như hiện tại, bạn chọn cuộc đời của ai? Tại sao?

3. Bạn hiểu và kinh nghiệm gì về tự do thể lý và tự do nội tâm? Tại sao người sống “yêu thương” là người tự do đích thực?

 

48. Người không nhìn lại - Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: "Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu"

Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn "giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện" có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.

Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.

Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.

Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.

Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.

Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.

Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.

Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.

Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, "Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?"

Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.

Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:

"Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời."

Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.

Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?

Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?

Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, "Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày."

Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.

Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader's Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.

Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.

Ông cố vấn hỏi, "Bà có muốn lấp đầy nó không?" "Dĩ nhiên là có," bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, "Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện."

Bà nhìn ông và nói, "Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi." Ông mỉm cười và nói, "Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm." Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, "Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa."

Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!

Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.

Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: "Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa."

Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.

Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.

Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, "Điều quan trọng là lời hứa."

Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:

"Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.

Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;

biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;

biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;

biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;

biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,

ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa."

 

49. Theo Chúa

Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần đến, đó chính là thời gian Ngài chịu đau khổ để thực hiện công cuộc cứu độ…

Chính vì thế mà Ngài đã đi lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc hành trình này, Ngài đã sai các môn đệ, là những sứ giả của Ngài đi trước, để chuẩn bị nơi ăn chốn ở tại những nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua. Cuộc hành trình sẽ phải đi ngang qua xứ Samaria. Người Do Thái thì khinh bỉ dân Samaria vì coi họ chỉ là những kẻ lai căng, bỏ mất truyền thống của cha ông, chạy theo những thứ tôn giáo nhảm nhí khi tiếp xúc với dân ngoại.

Còn những người Samaria lại nhìn dân Do Thái với một cặp mắt thù hận, nhất là những người hành hương về Giêrusalem. Bởi vì đối với họ phải thờ kính Thiên Chúa tại Sichem, chứ không phải tại Giêrusalem.

Chính vì mối thù nghịch sâu xa và lâu đời này mà họ đã tỏ ra thờ ơ lãnh đạm cũng như đã không tiếp đón các môn đệ và cả chính Chúa Giêsu. Thái độ này đã làm cho Gioan và Giacôbê tức tối, đến nỗi muốn sai cả lửa trời xuống thiêu rụi họ. Phải chăng sự hiền lành của Phúc âm đã không đem lại kết quả mong muốn? Thế nhưng Chúa Giêsu đã trách cứ các ông thiếu tinh thần bác ái.

Bài học Chúa muốn nhắn gửi các ông cũng như nhắn gửi mỗi người chúng ta, đó là đừng vội nóng giận, nhưng hãy cư xử một cách nhân từ, kiên nhẫn và yêu thương, bởi vì giận quá mất khôn, hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù, nếu như chúng ta muốn cảm hóa và dẫn đưa họ về cùng Chúa, bởi vì mật ngọt thì chết ruồi, chúng ta có thể giết được nhiều ruồi bằng một giọt mật hơn là bằng cả một thùng dấm chua.

Tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đối thoại với ba người.

Với người thứ nhất, Chúa Giêsu cho biết theo Ngài thì phải long đong vất vả, bởi vì Ngài không có nhà cửa, không có cơ sở và không có một chốn để gối đầu, để ngả lưng. Như thế Chúa muốn nói, để trở thành môn đệ của Ngài, thì phải từ bỏ bản thân, từ bỏ tiền bạc vật chất, nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.

Với người thứ hai muốn theo Chúa nhưng lại muốn về từ giã những người thân yêu, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời: Phải dứt khoát lập trường, phải ra đi ngay lập tức, không chần chừ, không lưỡng lự. Bởi vì ai đã tra tay vào cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng đáng với nước trời.

Sau cùng đối với người thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng gọi: Hãy theo Ta. Thế nhưng trước lời yêu cầu rất tự nhiên và rất chính đáng của anh đó là lo chôn cất cho người cha mới qua đời, Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn ngươi hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.

Như thế, qua những câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta thấy như có vẻ cứng cỏi, nghiêm khắc và đi ngược lại với những thói quen của chúng ta. Thế nhưng đó lại là sự thật, đó lại là sự đòi hỏi của Chúa.

Đứng trước lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải mau mắn đáp trả không chần chừ, không so đo tính toán. Phục vụ Chúa, đó phải là nỗi ưu tư số một, còn ngoài ra, tất cả chỉ là phụ thuộc, chỉ là thứ yếu mà thôi.

 

50. Kỳ kèo – Trầm Thiên Thu

Kỳ kèo là động thái mặc cả, trả giá hoặc ngã giá. Kỳ kèo cũng là so đo, suy hơn tính thiệt. Kỳ kèo đôi khi còn được người ta “biến thể” thành kèo nèo. Thực ra kèo nèo là một loại thực vật ăn được, nhưng nhiều người “đồng hóa” kèo nèo với động từ kỳ kèo, rồi còn biến thành cù nèo. Đúng là “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”!

Người ta có thể kỳ kèo trong mọi lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực “mua bán” mà ngay cả trong lĩnh vực tình cảm. Thậm chí là trong vấn đề tâm linh, đôi khi người ta cũng vẫn kỳ kèo với Chúa trong khi cầu nguyện. Thế mới lạ!

Về vấn đề theo Chúa, có lần Chúa Giêsu đã nói rạch ròi: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62). Rất thẳng thắn và dứt khoát.

Khi ngôn sứ Êlia phải trốn chui trốn nhủi trong một cái hang vì bị người ta tìm giết, Đức Chúa hiện ra nói với ông: “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về” (1 V 19:15). Và Đức Chúa căn dặn: “Còn Giêhu, con của Nimsi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ítraen. Êlisa con Saphát, người Avên Mơkhôla, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (1 V 19:16).

Kinh Thánh cho biết thêm rằng ông Êlia bỏ đó ra đi và gặp ông Êlisa là con ông Saphát đang cày ruộng; trước mặt ông Êlisa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Êlia đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Êlisa. Ông này liền để bò lại, nhưng chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông”. Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?” (1 V 19:21). Được gọi và sẵn sàng đi theo, nhưng ông Êlisa vẫn kỳ kèo một chút là về từ giã cha mẹ.

Chúng ta vẫn thường thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 16:1-2). Cách nói phủ định như vậy là để xác định mạnh mẽ hơn. Thế nhưng đôi khi chỉ hứng chí mà nói theo cảm tính, chứ thực ra thì có thể lại… “gãi đầu” và kỳ kèo điều gì đó. Con người là vậy, còn “đời” lắm! Chính hai con ông Dêbêđê cũng đã kỳ kèo cho mỗi người được kề cận bên Thầy Giêsu (x. Mt 20:20-23; Mc 10:35-40).

Chúa hiểu và luôn thông cảm cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để bớt dần “chất đời” trong những công việc đạo đức, phục vụ thật chứ không dùng sự phục vụ làm “chiêu bài” để đạt mục đích nào đó. Điều này thường thấy trong những người mệnh danh là Kitô hữu. Hãy cố gắng dùng cả tâm hồn và thể xác mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).

Hãy luôn nhớ có Chúa trước mặt, được Ngài ở bên thì an tâm, chúng ta chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, “tâm hồn sẽ mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:9). Chắc chắn “Chúa chẳng đành bỏ mặc ai trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung phải hư nát trong phần mộ, chính Ngài sẽ dạy chúng ta biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-10-11)

Chúa biết chúng ta yếu đuối, tham quyền cố vị, “chất đời” vẫn nhiều hơn “chất đạo”, thế nên Ngài mới bảo chúng ta phải cố “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48), nhờ đó mà có thể thoát “nhà tù trần tục”. Thánh Phaolô nói: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5:1).

Chúng ta đã được Thiên Chúa kêu gọi để hưởng tự do. Thánh Phaolô căn dặn: “Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.14 Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5:13-14). Và thánh nhân cảnh báo: “Nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5:15). Cảnh “cắn xé” này vẫn thấy xảy ra trong các cộng đoàn, rất đa dạng: phe cánh, kiêu ngạo, ích kỷ, giả hình, khinh người, “nổ” và “chảnh”...

Thời nào cũng có cảnh “cắn xé” đó, nhưng ngày nay người ta “cắn xé” nhau tinh vi hơn nhiều! Thánh Phaolô khuyên: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa” (Gl 5:16-18).

Chắc chắn không dễ chút nào, nghĩa là khó lắm. Nhưng lại rất lô-gích: Vì khó nên mới phải cố! Ca dao Việt Nam nói: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra”. Chí lý! Quả thật, đâu phải cứ đẹp là tiên, đâu phải ai tu cũng hiền, đâu phải tên cướp nào cũng ác, đâu phải tội nhân nào cũng xấu,... Cái gì dũng có cái ngoại trừ, như người ta thường nói: “Đừng vơ đũa cả nắm”.

Chính Chúa Giêsu đã xác định Ngài là người-không-có-chỗ-tựa-đầu. Thật te tua, không ai có thể nghèo hơn Ngài, vì người ăn mày hoặc kẻ lang thang cũng có cục gạch làm gối đầu. Có những người mệnh danh là môn đệ của Chúa Giêsu mà chẳng thấy giống Thầy chi cả: Sống ung dung, sang trọng, giàu có, đầy đủ tiện nghi,... thậm chí còn “đòi hỏi” phải thế này hoặc thế nọ, bắt người khác phải phục vụ mình. Đòi hỏi tức là kỳ kèo vậy!

Thánh sử Luca kể: Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến.53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9:54). Bất nhân quá! Kiêu ngạo quá! Chảnh quá! Thế nhưng Đức Giêsu liền quay lại quở mắng các ông, rồi Thầy trò đi sang làng khác. Chúa Giêsu chả kỳ kèo gì cả, họ không thích mình thì thôi. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thế mà trong chúng ta cũng vẫn có những người đầy “thâm ý” giống như hai anh em nhà Dêbêđê kia!

Đang khi Thầy trò đi đường, có kẻ thưa với Đại Sư Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9:57). Ngài thản nhiên trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Chu choa! Khổ rứa hỉ, răng mà theo nổi? Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!”. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9:59). Lại kỳ kèo! Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9:60). Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9:61). Đức Giêsu thẳng thắn đưa ra nghiêm luật: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62).

Ba người có ba kiểu kỳ kèo khác nhau, Chúa Giêsu cũng có ba kiểu nói khác nhau. Chúng ta cũng chẳng hơn gì, chín người mười ý, vì chúng ta vẫn thường kỳ kèo với Chúa trong những lời cầu nguyện, thế nhưng chúng ta cứ tưởng vậy là hợp lý. Chúa khổ thật, vì hằng ngày phải nghe biết bao lời kỳ kèo của những người mà Ngài đã cứu thoát án tử!

Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con đã kỳ kèo quá nhiều. Xin biến đổi chúng con để chúng con trở thành những môn đệ đích thực của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, không hề so đo gì. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Sư Giêsu, Thiên Chúa cứu độ chúng con. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ