Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1377395

HÃY TỈNH THỨC

Hãy tỉnh thức

Những ai đã diễm phúc sống qua tuổi học trò thì không thể nào quên được những kỷ niệm muôn đời ghi dấu đó. Tuổi học trò thật dễ thương. Trong những cái dễ thương có cái đẹp, cái chẳng đẹp. Cái không đẹp đó là sự nghịch ngợm của học trò mà người ta thường ví von: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”.

Tôi còn nhớ khoảng thời gian học lớp đệ lục, đệ ngũ (tức lớp 7, 8 bây giờ). Cứ mỗi khi thầy giáo đang dạy học, phải tạm ngừng để ra khỏi lớp trong vòng 5 hay 10 phút, thầy giáo căn dặn học trò rất kỹ: “Các em lưu ý, thầy có việc phải lên văn phòng gặp ông hiệu trưởng trong giây lát. Trong khi vắng mặt thầy tin tưởng các em sẽ giữ trật tự, ngoan ngoãn. Mỗi em phải làm bài tập sau đây khi thầy trở lại sẽ nộp bài. Thầy nhờ anh trưởng lớp giữ trật tự. Nhớ rằng thầy đi trong vòng vài phút rồi sẽ trở lại ngay”.

Tôi dám chắc các bạn đoán được sự gì xảy ra ngay khi ông thầy rời khỏi lớp. “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm!” Thầy giáo vắng mặt là một dịp may cho những tên học trò phá phách, là một cám dỗ thử thách cho những học trò thích nghịch nhưng còn nhát sợ. Chỉ có một số nhỏ hiền hoà, nghiêm chỉnh làm bài tập.

Lớp học đang im lặng, từ từ ồn ào lên, bắt đầu từ những tên nghịch ngợm đầu xỏ trước. Thầy giáo vừa ra khỏi lớp, nó liền phóng theo núp ở đằng sau cánh cửa, nhìn xem đã thực sự đi xa chưa. Khi nó ra hiệu, lớp học nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Đứa phóng máy bay giấy đảo lượn khắp phòng. Đứa bỏ chỗ chạy đến tán dóc với bạn bè. Đứa phóng lên bảng, viết vẽ bậy bạ, làm trò hề và cả lớp cười ầm lên… Anh lớp trưởng phải lớn tiếng kêu gọi trật tự. Từ kêu gọi sang cảnh cáo. Từ cảnh cáo thành cãi vã, đe doạ. Kêu gọi không được thì đập bàn, gõ thước kẻ. Cả lớp ồn lên như cái chợ. Có những đứa biết sợ, cứ lấp ló nhìn qua khe cửa xem thầy giáo trở lại chưa!

Bây giờ là thời gian thầy giáo vắng mặt. Chúng ta đang sống giữa khoảng thời gian Chúa Giêsu đã đến lần thứ nhất rồi: như một bé thơ trong máng cỏ và chờ đợi Ngài trở lại lần thứ hai: như là Chúa tể đất trời và là thẩm phán. Bài Phúc âm hôm nay, và sách Giáo lý Công giáo số 672 đã dạy: “Thời gian hiện nay, theo lời Chúa, vẫn là thời gian của Chúa Thánh Thần và của việc làm chứng, nhưng cũng là thời gian của “sự khốn khổ”, và những thử thách điều ác sẽ không buông tha Giáo Hội và sẽ mở màn cho những chiến đấu của ngày sau cùng. Đó là thời gian của chờ đợi và cảnh giác.

Lịch sử của Cựu Ước là thời gian mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Isaia diễn tả sự mong đợi này: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”. Và sự vắng mặt của Thiên Chúa làm con người “luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi… đầy vết nhơ… như chiếc áo bẩn”.

Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã giáng trần để cứu chuộc con người theo như lời Thiên Chúa đã hứa. Và lịch sử của Tân Ước với các Kitô hữu tiên khởi là thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến sự vắng mặt của Chúa Giêsu, thời gian chờ đợi ngày Ngài lại đến. Như thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô: “Anh em tràn đầy mọi ơn, ơn ngôn ngữ, và ơn hiểu biết… trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra”.

Tuy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, nhưng sự hiện diện và ơn cứu rỗi của Ngài mãi mãi ở với chúng ta. Do đó, trong lúc chờ đợi ngày Ngài lại “tỏ mình ra”, hiện nay bằng nhiều cách Ngài vẫn luôn luôn hiện diện để giúp đỡ chúng ta trong cuộc sống đức tin. Nhân dịp mùa vọng đến, Giáo Hội dựa vào lời Chúa kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức” để nhận ra Ngài, cùng với ơn cứu độ của Ngài.


 

47. Hãy tỉnh thức

1- Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người có lý trí. Khi ngủ ta mất hay ít ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi tỉnh thức. Việc Chúa Giêsu đã giáng trần để cứu chuộc nhân loại sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống con người nếu chúng ta không ý thức. Ngài vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người. Sự vắng mặt này gây nên các vấn đề rắc rối và tạo nên những bi kịch trong cuộc sống nhân sinh. Nó gây ra đau khổ, và chết chóc.

Trong một cuộc phỏng vấn qua ca khúc “Bông Hồng Cài Ao”, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ rằng nhận thức sự có mặt của mẹ trong đời, đó là điều làm nên hạnh phúc của những người con. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta có thể nói rằng nhận thức sự hiện diện của Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Người là điều cần thiết tạo nên hạnh phúc của người Kitô hữu.

2. Tỉnh thức để cảm nhận được những dấu tích của Thiên Chúa xung quanh chúng ta nếu chúng ta biết cách đón nhận. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết thời danh của Hoa Kỳ vào những thập niên 60 và 70 thường ví vũ trụ giống như một cửa sổ được ghép bằng những ô kính. Qua cửa sổ ô kính của thế giới hữu hình chúng ta có thể đến để nhìn ra Đấng Vô Hình, sức mạnh và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ký giả Kitô giáo Malcolm Muggeridge đã diễn tả điều này như sau: “Mọi điều lớn hay nhỏ xảy ra là một dụ ngôn qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta, và nghệ thuật của đời sống chính là thu thập được cái thông điệp đó”. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những làn sóng điện và âm thanh phát ra trong không gian. Chúng ta không biết nó và không nhận ra nó cho đến khi có một cái máy thu nhận làn sóng điện – receiver – như là radio, tivi, điện thoại di động, computer… Bật máy lên sử dụng, một thế giới thông tin với hình ảnh, âm thanh và tin tức mở ra cho chúng ta. Tất cả sự thông tin thú vị và phong phú này đến với chúng ta chỉ khi nào chúng ta biết đón nhận chúng. Tiếng nói của Thiên Chúa giống như những làn sóng radio hay làn sóng điện toán trong không gian, vây quanh và thấm nhập vào thế giới của chúng ta. Và mỗi người có một cái máy tiếp nhận làn sóng tinh thần ở bên trong giúp chúng ta cảm nhận được những dấu chỉ và cho phép lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy cái radio, computer tinh thần này ở bên trong mỗi người như một thứ giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu này chính là lương tâm và đức tin. Khi chúng ta qui tụ nhau lại thờ phượng Thiên Chúa nơi nhà thờ, tham dự bàn tiệc Thánh Thể, rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô qua hình bánh và rượu, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào và thánh thiện của Ngài giữa chúng ta.

3. Tỉnh thức để xa tránh tội lỗi: Trong bài Phúc âm, thánh Marcô dùng hình ảnh của một người canh giữ cửa. Một người canh giữ cửa tỉnh thức và chờ đợi chủ trở về. Không ngủ mê trong yếu đuối xác thịt và tội lỗi. Cũng không canh giữ theo kiểu các chú học trò tinh nghịch nhìn qua khe cửa xem thầy giáo đã trở về hay chưa để phá phách! Trước Giáng sinh năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy tụ hơn 2000 trẻ em của một giáo xứ ở Rôma. Bằng cuộc đối thoại, ngài dạy giáo lý cho các em và hỏi: “Làm thế nào các con sửa soạn mừng lễ Giáng sinh?” “Bằng cầu nguyện” từ phía sau các em la to. “Rất tốt, bằng cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng nói, nhưng cũng phải bằng việc đi xưng tội nữa. Các con phải đi xưng tội để có thể lên rước lễ sau đó nữa. Các con có làm như thế không?” Hàng ngàn trẻ em trả lời trong cùng một tiếng lớn giọng hơn: “Chúng con sẽ làm!” Và Đức Giáo Hoàng nói với các em. “Phải, các con nên đi xưng tội”. Rồi ngài hạ thấp giọng xuống thì thầm, “Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đi xưng tội để đón tiếp Chúa Giêsu Hài đồng một cách xứng đáng”.

4. Tỉnh thức vì Thiên Chúa đến rất bất ngờ: Thiên Chúa đến với chúng ta qua mọi hình thức, mọi biến cố trong cuộc sống, ngay cả sự chết, và sau cùng trong ngày phán xét chung, tận thế. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đón tiếp Ngài, nhất là những lúc chúng ta không ngờ. “Ta đến như một tên ăn trộm, hạnh phúc cho những ai tỉnh thức”. Trên chiếc máy bay phản lực 747 vừa cất cánh rời phi trường ở Nữu Ước bay đi Rôma, có một bà cụ già tên là Maude, ngồi ở bên cửa sổ. Cụ để dành tiền trong nhiều năm trời mới đủ để làm một chuyến hành hương Rôma như cụ hằng mong ước. Đây là lần đầu tiên cụ đi máy bay, nên cụ lo sợ và kinh hoàng. Cụ cứ lầm bầm cầu xin: “Lạy Chúa, con phải làm gì ở trển đây?” Mặc dù phía trước cụ có 4 vị giám mục cùng sang Rôma dự hội nghị, cụ vẫn cứ run sợ. Cụ sợ rớt máy bay mà chết! Sau cùng đang lúc run sợ, cụ liếc trộm ra ngoài cửa sổ, chẳng may gặp đúng lúc một trong bốn động cơ của phản lực không còn hoạt động được nữa, và máy bay biến vào đám mây bên dưới. Cụ la hét lên kinh hoàng: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô trưởng đoàn chiêu đãi viên hàng không lập tức đến bàn hỏi ý kiến với phi hành đoàn, rồi thông báo cho tất cả hành khách biết rằng mọi sự sẽ êm đẹp: “Xin quý vị an tâm, viên trưởng phi công bảo đảm với quý vị rằng ông ta có thể điều khiển máy bay quay trở về New York và đáp xuống an toàn với 3 động cơ”. Nhưng bà cụ cứ la hoảng lên: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô chiêu đãi viên lại phải đến trấn an cụ lần nữa: “Cụ ơi, cụ đừng lo, Chúa đang ở với chúng ta. Máy bay của chúng ta chỉ có 3 động cơ thôi, nhưng xem kìa, chúng ta có tới 4 vị giám mục cơ mà!” Nhưng bà cụ trả lời: “Thôi, tôi muốn có 4 động cơ và chỉ cần 3 giám mục là đủ!” Hôm nay Chúa nói với chúng ta rằng: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về… kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng con đang ngủ”. “Hãy tỉnh thức”. Bà cụ hoảng sợ vì không ngờ thời giờ lại đến ngay vào lúc cụ chưa sẵn sàng. Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả “.


 

48. Mùa vọng

Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho lòng chinh phụ hoá thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.

Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa At, “At” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hoá, có một thời lại được gọi là Mùa Ap, “Ap” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.

Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay: đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.

Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đãng cẩu thả để đạt một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.

Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đình, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.


 

49. Mùa loan báo

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.

Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.

Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.

1. Mùa Vọng - Mùa loan báo.

Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.

Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.

Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.

2. Mùa Vọng - Mùa chờ đợi

Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ "Chúa đến" thường được hiểu bằng bốn cách:

- Chúa đến trong lịch sử nhân loại.

- Chúa đến trong ngày phán xét chung.

- Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.

- Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.

Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.

Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.

Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.

Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.

Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.

3. Mùa Vọng - Mùa tỉnh thức

Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: "đứng thẳng và ngẩng đầu lên". Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để " lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời", không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.

- Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.

- Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.

Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.

Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.

Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.

a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:

Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là "thắt lưng cho gọn" và "thắp đèn cho sẵn". Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để "đợi chủ về". Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.

b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.

Quản gia chỉ là quản lý mà " ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc". Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp...tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng... giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.

Du khách hỏi: "Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?"- "Khoảng 40 năm rồi" – "Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?" – "Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi" – "Ông có thư từ gì với cụ không?" – "Không, ông ta bận lắm" – "Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?" – "Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này" – "Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?" – "Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên".

Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.

Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.

Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.

Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.

Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.

Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.


 

home Mục lục Lưu trữ