Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1380066

HY SINH

Hy sinh.

Một ngày nọ, một cậu thiếu niên đến gặp ông nội cậu và xin ông đi câu cá với cậu. Ông nội cậu là một người thợ rèn, liền nói: “Ngay sau khi ông đóng móng cho cặp ngựa này, ông sẽ đi với cháu”.

Cậu bé bắt đầu đi thơ thẩn xung quanh lò rèn. Ông nội báo cho cậu biết đừng sờ vào các móng ngựa bởi vì nó có mấy cái còn rất nóng. Nhưng khi ông vừa quay lưng đi, thì đứa cháu đã cầm lấy một cái. Thấy nóng quá, cậu lập tức buông cho móng ngựa rơi ra và kêu lên một tiếng. Ông nội cậu nghe được tiếng kêu liền hỏi: “Con có bị sao không?”.

“Không”, cậu bé nói dối.

“Chắc không?”

“Nhưng nếu cháu đau thì ông có thể giúp cháu”

“Không cháu không sao mà”

“Vậy cháu không bị phỏng chứ?”

“Không”

“Nếu cháu không sao thì tốt, vậy sao cháu lại buông cái móng ngựa nhanh thế”.

“Cháu đâu cần nhiều thời gian để xem nó.” Cậu bé đáp.

Không cần nhiều thời gian để xem và rồi buông bỏ như câu chuyện của Đức Giêsu cho chúng ta thấy.

Rõ ràng, người thanh niên đến gặp Đức Giêsu vì anh ta thán phục Người – anh ta gọi Người là “Thầy nhân lành”. Có được người thán phục là chuyện dễ nhưng tìm được người muốn hy sinh là chuyện khó. Khi Đức Giêsu yêu cầu anh đem cho mọi người của cải và trở thành môn đệ của Người thì xem ra đó là một hy sinh quá lớn đối với anh. Anh buồn bã bỏ đi. Tại sao buồn? Bởi vì thách đố mà Đức Giêsu đưa ra cho anh đã tạo thành một quan điểm về sự cao cả thật lóe sáng lên trong tâm trí trẻ trung của anh ta. Anh ta thấy quan điểm này thật hấp dẫn nhưng phải trả giá quá đắt. Anh ta biết điều đó khi quay lưng lại với Đức Giêsu, đồng thời cũng khước từ quan điểm đó. Vì thế anh bỏ đi lòng buồn bã.

Đức Giêsu đã để cho anh đi. Người đã tôn trọng tự do của anh. Không có ích gì khi bắt buộc người ta phải hy sinh. Nếu họ không hy sinh, họ sẽ trở nên nghèo nàn. Nhưng nếu họ tự do đón nhận hy sinh, họ sẽ được phong phú. Con người chủ yếu tốt lành. Nhưng sự tốt lành phải được thức tỉnh và được phát huy nếu họ muốn bước vào vương quốc của tình yêu.

Không phải cái chúng ta nhận làm chúng ta trở nên cao cả mà là cái chúng ta cho đi. Bởi cho đi, chúng ta trưởng thành. Có một nguy cơ là tôn giáo có thể trở thành quá dễ dãi. Mọi tôn giáo lớn đều dạy rằng không có phần thưởng nào không đòi từ bỏ hay trả giá.

Một câu hỏi có lần được gởi đi khắp các trường trung học ở New York hỏi rằng: Bạn thích được như thế nào? Hai phần ba học sinh đều đáp: “Được nổi tiếng”. Họ không có ý tưởng nào về việc phải cống hiến mình để hoàn thành một công việc.

Trong thâm tâm, mọi người chúng ta khao khát sự tốt lành. Chúng ta có một giấc mơ phải làm một điều gì thật sự có giá trị với cuộc đời mình. Chúng ta biết rằng theo đuổi giấc mơ ấy bao hàm sự hy sinh nhưng cũng đem lại niềm vui to lớn. Chính Thiên Chúa đã đặt khát vọng ấy trong tâm hồn chúng ta.

Đức Giêsu hứa ban một phần thưởng ngay trên đời này cho những ai đi theo Người – phần thưởng của tình bằng hữu, và của một đời sống có mục đích và ý nghĩa. Và thật nghịch lý, không phải là một đời sống dễ dãi dẫn đến sự viên mãn và niềm vui mà là một đời sống của sự hy sinh.

 

57. Suy niệm của Lm Vincent Âu Quốc Thanh.

Người đời thường dùng tiền để đo lường mức độ tình yêu hoặc sự thân thiết với nhau. Ví dụ, nếu có người bạn quen sơ lập gia đình và lịch sự gửi thiệp hồng thì người được mời cũng phải lịch sự gửi thiệp chúc mừng với ngân phiếu khoảng 50 Mỹ kim. Nếu đi ăn tiệc ở California, thì tấm ngân phiếu nầy chỉ gỡ huề cho Anh Chị mới cưới thôi. Nếu cô dâu hoặc chú rể là người bạn thân thì người đi dự tiệc cưới sẽ phải mừng ít là một hình cụ Tổng Thống Adam (100 đô). Nếu Chú bác, ông và, cha mẹ thì phải cho đi mấy cụ mới hợp tình nghĩa.

Qua thí dụ trên, chúng ta thấy rằng tình thân thiết giữa người đi dự tiệc cưới và cô dâu chú rễ càng mạnh mẽ thì người ta càng dễ thoát ly tiền của, càng dễ cho tiền của cách quãng đại

Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dùng tiền để đo lòng chàng thanh hiên giầu có. Dựa trên những lời của chàng thanh niên, chúng ta thấy tình thân thiết của chàng và Thiên Chúa thuộc vào hàng trên trung bình. Là một người Israel đạo hạnh biết kính sợ Thiên Chúa từ tấm bé, chàng không phạm tội tà dâm, không giết người, không làm chứng gian và không lường gạt. Có lẽ chàng cũng đã dâng cúng cho Thiên Chúa 10% những hoa lợi hàng năm. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đòi chàng phải bán hết gia tài và phân phát cho người nghèo và theo Ngài với hai bàn tay trắng thì chàng đã buồn rầu bỏ đi. Đồng tiền liền khúc ruột; thật khó cắt bỏ lòng quyến luyến tiền của.

Nhưng khước từ tiền của lại là một điều kiện không có không được để theo Chúa. Khi theo Chúa, người môn đệ không dựa vào tiền của nhưng phải tin tưởng sức mạnh tuyệt đối của Thiên Chúa. Môn đệ của Chúa Kitô không chủ trương – có tiền chẳng mạnh thì bạo, hay – có tiền chán vạn người hầu, có bấc có dầu chán vạn kẻ khêu. Người chủ trương mạnh vì tiền sẽ khó vào nước Trời vì lòng họ khó có thể hiền lành và khiêm nhượng. Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta: lòng mê man tiền của là một chướng ngại vật rất to lớn cho những người muốn làm môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Lòng yêu chuộng tiền của càng lớn lên thì lòng yêu Chúa càng kém đi.

Có nhiều người môn đệ của Chúa Kitô đang phải đấm ngực ăn năn vì lòng mê tham tiền của. Có lẽ chúng ta không can đảm bỏ đi như chàng thanh niên vì sợ người đời chê cười là hèn nhát. Chúng ta vẫn theo bước Chúa Kitô và vẫn mang danh là Kitô hữu, nhưng cuộc sống thực tế của chúng ta có lẽ cũng đáng làm cho chúng ta phải buồn rầu vì đã không dám bán hết của cải để theo Chúa Giêsu với một trái tim không chia sẻ.

Nhiều bạn trẻ sẵn lòng bỏ ra mấy chụd Mỹ kim để dẫn bồ đi coi xinê, nghe nhạc, hay ăn tại Red Lobster nhưng lại thấy tiếc khi bỏ cho nhà thờ mấy đô la. Vì thế mới có câu: Some people pay tithes to the waitress but tip to God (Một số người đóng tiền thập phân cho cô chạy bàn nhưng cho Chúa tiền lẻ (tiền tip). Còn những bậc người lớn đã theo Chúa Kitô lâu năm, thử hỏi lòng ta đã thoát ly tiền của được bao nhiêu. Hay lại mắc phải tật càng già càng thích tích trữ mọi thứ đồ dùng. Lỡ nói nói luôn kẻo mang tiếng kỳ thị từng lớp người. Ngay cả những tu sĩ và linh mục là những người hứa sống đời sống nghèo của Phúc âm cũng cần phải buồn rầu, ăn năn vì đã không sống xứng đáng với những ơn Chúa đã ban. Tu sĩ mà lại thích giầy Nike hay Addidas quá đáng; linh mục mà thích chơi xe xì-bo (sport car) loại mới nhất; thất khó hiểu và khó coi làm sao. Có lẽ có đấng sẽ chữa rằng Chúa ban lại gấp trăm ở đời này lẫn đời sau mà. Xin Chúa là Đấng thấu suốt và đo lường mọi tình cảm trong tâm hồn minh xét cho chúng con. Lòng ta tôn thờ kính yêu Thiên Chúa hay thần tài?

 

58. Bước theo Chúa Giêsu – Lm Nguyễn Hữu An.

Các bạn trẻ thân mến!

Tôi xin được chia sẻ một đôi suy niệm của mình về người thanh niên trong trang Tin Mừng hôm nay.

– Đây là một người trẻ rất giàu có.

Tin Mừng không nói cho ta hay nguồn gốc về tài sản của anh, nhưng qua cuộc sống đạo hạnh của mình, chứng tỏ rằng anh là người dễ thành công trong cuộc sống và thực sự anh thành công trong cuộc sống trần thế. Anh ta có nhiều của cải

– Anh cũng là một người trẻ Do Thái công chính, ngay thẳng, không dối gian.

Bằng chứng qua việc anh tuân giữ các giới răn của Chúa thật tốt ngay từ lúc còn bé và dĩ nhiên đến hôm nay “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. Thật là một người trẻ tuyệt vời trong đời sống niềm tin và xã hội của người Do Thái. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn anh với ánh mắt yêu thương và trìu mến.

– Anh là người biết cầu tiến.

Sự cầu tiến ở đây không chỉ ở phương diện thế trần mà còn thể hiện trong đời sống tâm linh của anh “ Lạy Thầy nhân lành! Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Sự giàu có về vật chất, lòng đạo tinh tuyền của một người Do Thái, không làm cho anh tự kiêu tự mãn như anh biệt phái trong câu chuyện “người thu thuế và anh biệt phái lên đền thờ cầu nguyện”, trái lại anh vẫn luôn nghe được tiếng réo gọi trong tâm hồn anh về khát vọng sống đời đời. Anh khao khát và anh kiếm tìm. Anh kiếm tìm và anh đã gặp Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống đời đời. Thánh Luca ghi lại “khi ấy Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người “. Đây là một cử chỉ mang tính phụng vụ, cử chỉ của con người trước thần linh và như thế, người thanh niên này đã bước từ Do Thái giáo sang Kitô giáo. Thật là một quyết định sáng suốt, can đảm và khôn ngoan. Anh muốn được Đức Giêsu chỉ dạy như một vị Thầy.

– Nhưng tiếc thay! Anh không thể hoàn tất khởi đầu thuận lợi ấy. Anh thiếu một điều cơ bản là “ bỏ mọi sự để thuộc về Đức Kitô”

Thật vậy! Trang Tin Mừng cho ta thấy một khởi đầu thuận lợi nơi cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên. Ai trong chúng ta và có lẽ chính anh cũng nghĩ rằng anh đầy đủ điều kiện để đón lấy sự sống đời đời mà không cần phải làm gì hơn nữa. Chính lúc ấy, và lần đầu tiên anh phải đối diện với Lời là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Lời mà thư Do Thái đã diễn tả thật hay “ Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người …” (Dt 4,12-13). Lời đã hoá thành xác phàm và đang đứng trước mặt anh: Đức Giêsu thành Nagiaret. Lời muốn anh đón tiếp Người để trao cho anh quyền làm Con Thiên Chúa, đây là ân huệ tuyệt đỉnh nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó cũng là sự sống đời đời mà anh khao khát kiếm tìm. Đón tiếp Ngài bằng một sự khó nghèo, một sự từ bỏ “anh chỉ thiếu có một điều, là hãy về bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời rồi hãy đến theo tôi.”.

Nghe lời trên anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Anh sáng của Lời Hằng Sống tưởng sẽ xuyên thấu và đổi mới tâm hồn chàng trai trẻ bỗng khựng lại bởi bức tường của tiền bạc đang bao phủ vây kín cuộc đời anh, níu chặt lấy anh không cho anh bước theo Đức Giêsu. “ tim anh phút chốc bừng nắng hạ, nhưng tiếc thay mặt trời là lời chân lý không thể chói qua tim anh bởi anh đã khép tim mình lại trong bóng tối của tham sân si”.

Các bạn trẻ thân thương!

Qua câu chuyện của người thanh niên trong Tin Mừng, tôi rút ra mấy xác tín cho người trẻ chúng mình:

+ Thiên Chúa mới chính là gia nghiệp và là hạnh phúc đích thực cuộc đời của chúng ta chứ không phải tiền bạc, danh vọng, địa vị hay bất cứ một thế lực nào đó trên trần gian này. Người trẻ trong trang Tin Mừng là một minh chứng hùng hồn về nhận định “tiền không phải là tất cả”. Sự giàu sang không thể khoả lấp cơn đói khát nằm sâu trong tâm hồn con người. Trái lại sự giàu có dễ trở biến thành rào cản ta lãnh nhận hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa. Thánh Augustinô sau những tháng năm tìm kiếm sự thoả mãn cơn đói khát trong tâm hồn mình bằng danh – lợi – thú trần gian, cuối cùng Ngài mới nhận ra rằng “ Lạy Chúa! Chúa dựng nên chúng con là để cho Chúa, và vì thế tâm hồn chúng con khát khao cho đến khi nào được an nghỉ trong Ngài”. Sống và được no thoả trong Thiên Chúa thánh nhân đã nức nở “ ôi con yêu Chúa quá muộn màng, Ngài đã chiến thắng, con mù loà Ngài đã chiếu sáng, Ngài toả ngát hương và làm con say mến, Ngài là dịu êm và lòng con thao thức ngày đêm”. Mong thay, bạn sẽ không phải hối hận thốt lên như Augustiô “ôi! Con yêu Chúa quá muộn màng”. Nhưng nếu đã thấy đã muộn thì mau quay về với Ngài. Ngài vẫn chờ bạn như người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về. Bạn ơi! Hãy cho Chúa một cơ hội, một niềm vui, một lễ hội trên thiên đàng qua sự trở về của bạn. Bạn ơi với Chúa “ một ngày ví tựa ngàn năm”. Bởi đó, đối với Chúa không bao giờ là trễ cả.

+ Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất hướng dẫn ta đến cùng Thiên Chúa. Chính Ngài đã khẳng định “ không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Thánh Phêrô cũng đã tuyên xưng” bỏ Thầy con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Bởi Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Và như vậy hạnh phúc và ý nghĩa đời ta tuỳ thuộc vào thái độ và tương quan của ta với Đức Kitô. Anh Charles de Foucaul xác tín “ biết Đức Kitô đó là tất cả, phần còn lại chẳng là gì hết”. Biết Đức Kitô là biết, yêu mến và nên một với Người.

+ Bước theo Đức Kitô đòi ta phải từ bỏ không phải một lần nhưng là mọi ngày trong suốt đời ta. “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi”. Sự đòi hỏi của Đức Kitô có tính triệt để hiến dâng “không có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”. Bạn và tôi được mời gọi từ bỏ những gì mình có, từ bỏ những gì làm thành cuộc đời mình, để thuộc về Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Cụ thể, người trẻ chúng mình phải bỏ qua lối sống đạo hời hợt bên ngoài, sống đạo cách tiêu cực, sống đạo theo thói quen mà thiếu hẳn xác tín, thiếu hẳn tình yêu và nhất là thiếu tính dấn thân trong việc sống, làm chứng và loan báo Chúa Kitô cho những người xung quanh

Cầu chúc các bạn hạnh phúc và làm cho mọi người và Thiên Chúa hạnh phúc.

 

59. Người công chính Tân Ước – Lm Nguyễn Hữu An.

Một thanh niên tốt có thiện chí,giữ trọn các giới răn của Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời.Chúa Giêsu đem lòng yêu mến người thanh niên này. Chàng trai thật dễ thương, khắc khoải muốn vươn lên,băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành,có tinh thần cầu tiến. Anh ước mơ một vùng trời lý tưởng,ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm “Thầy nhân lành”.”Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng chân thành.”Hãy từ bỏ hết tất cả những gì con có rồi theo Ta.”. Nghe xong, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21).Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời.Các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ? Còn Chúa Giêsu thì thương tiếc anh và những người giàu: “Những người giàu có mà vaò Nước Chúa thật khó biết bao,! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa”

Niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng đến Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui lớn lao thế nào thì giờ đây lại là một nổi buồn thất vọng chua chát. Phấn khởi gặp Chúa nhưng lại ra đi đầy phiền muộn, chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ,anh chỉ muốn giũ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất, phòng thân, dưỡng già. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng nhưng anh vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.

Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có nhưng hiếm có những thanh niên thiết tha đến việc trở nên tốt hơn và lại càng hiếm hoi những người trẻ nhân hậu xứng đáng nên mẫu gương thu hút kẻ khác.

Người thanh niên Do thái này là người tốt,sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu.Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Ngài.

Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc. Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất của cải làm cho họ nô lệ và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất.

Bi kịch của người thanh niên cũng là của chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần nó làm chủ con người, trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.

Những tiêu chuẩn con người đang đặt ra để trói buộc nhau như tiền tài, địa vị, danh vọng không thật sự làm cho mình sống thảnh thơi hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại đề thưởng thức một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái, đọc một cuốn sách hay, một cuộc trò chuyện, một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm, dâng một thánh lể sốt sắng, dự một giờ chầu sốt mến… Giàu tiền mà không biết cười, không biết yêu thương, không có niềm vui nội tâm thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người con có những giá trị tinh thần, những giá trị thiêng liêng chứ không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền.

Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người công chính Tân ước.

Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ, đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Đức Giêsu. Không phải chỉ cần không làm việc này, việc nọ đã là nhân lành, thiện hảo, người Kitô hữu được mời gọi sống cao hơn, đó là chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày.

 

60. Nguy cơ làm nô lệ cho tiền của

(Suy niệm của Lm. Ngô Tôn Huấn)

Sống trên đời này, không ai có thể ngây thơ nói rằng tiền bạc không cần thiết. Thực tế, về một phương diện và đến một mức độ nhất định, thì phải nói ngược lại là tiền bạc rất quan trọng và cần thiết. Cụ thể sống ở đất Mỹ này, không có tiền thì làm sao trả “bills” hàng tháng? Không trả bills thì điện nước trong nhà sẽ bị cúp, xe đang chậy, nhà đang ở sẽ bị ngân hàng lấy lại để bán cho người khác.v.v. Nhà thờ, nhà xứ không có đủ tiền chi phí thì Điạ phận sẽ đóng cửa hoặc sáp nhập (consolidate) với giáo xứ khác.

Đây là thực tế không ai có thể phủ nhận được. Cho nên, trong giới hạn cần thiết này, tiền bạc trở thành yếu tố rất quan trọng cho đời sống cá nhân, gia đình và cho cả việc thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội điạ phương và hoàn vũ.

Chính trong giới hạn cần thiết này mà Thánh Gia-cô-bê đã phải nói: ” Giả sử có người anh em hay chị em không có aó che thân và không có đủ của ăn hàng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ rằng: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2:15-16)

Nghĩa là phải cho họ ăn no đã rồi hãy nói đến chuyên tinh thần hay giảng đạo cho họ. Câu “có thực mới vực được đạo” rất đúng để áp dụng trong trường hợp này.

Tuy nhiên, cũng không vì lý do thực tế này mà quá đề cao hay lệ thuộc vào tiền của đến nỗi coi nhẹ mục đích tối thượng của đời mình với tư cách là người tín hữu Chúa Kitô sống trong trần thế. Mục đích tối thượng đó chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người.

Thật vậy, bài Tin Mừng Chúa nhật 28 thường niên hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rõ nguy cơ của sự nô lệ cho tiền của, giầu sang vật chất đến độ coi phần rỗi là thứ yếu. Chàng thanh niên giầu có kia đã tuân giữ mọi điều răn căn bản Chúa dạy như không trộm cắp, giết người, gian dâm, làm chứng dối v,v. Như thế anh ta đã hơn rất nhiều người khác về phương diện rất quan trọng này và đáng được khen ngợi, đề cao.Tuy nhiên chỉ còn một điều nữa mà anh còn thiếu để trở nên hoàn hảo trọn vẹn, đó là đem bán mọi thứ anh đang có và dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo như Chúa Giêsu bảo anh. Nhưng anh ta đã buồn rầu khi nghe lời khuyên này của Chúa, và đã quay đi chỉ vì ” anh có nhiều của cải” (x Mc 10:17-22). Anh không thể chấp nhận lời khuyên của Chúa để “được một kho tàng trên trời” vì anh lòng anh quá bám chặt vào kho tàng ở đời này là tiền bạc và của cải vật chất. Như vậy, trước hết, anh đã không có được cái khôn ngoan của bài đọc 1 trong đó tác giả đã viết:

“… vàng trên cả thế giới, so với đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.” (x Wis 7: 9)

Đức Khôn Ngoan dạy cho ta biết dùng của cải vật chất trong đúng giới hạn cần thiết của nó mà thôi.Nếu không có đức Khôn Ngoan này, thì chúng ta cũng không hơn gì người thanh niên giầu có kia, không thể hy sinh của cải đời này để đổi lấy “kho tàng vô giá trên trời” là chính Thiên Chúa và Vương Quốc bình an của Người. Chính vì thiếu đức Khôn Ngoan này cho nên con người ở khắp nơi trên thế giới ngày nay, trong đó không thiếu gì những người có đức tin Kitô Giáo, đã chậy theo những quyến rũ của chủ nghiã vật chất tiêu thụ (materiarism and consumerism) đang lao đầu vào việc tìm kiếm tiền của bất chấp mọi nguyên tác đạo đức và công bằng. Người ta mặc sức làm giầu bằng mọi phương thế, kể cả lừa đảo, bọc lột nhau và dửng dưng trước sự nghèo đói, khốn cùng của biết bao anh chị em đồng loại ở khắp nơi trên khắp thế giới.

Những người này cần nghe lời cảnh giác sau đây của Chúa Giêsu: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?. Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy.” (Lc 12:20-21).

Thử hỏi: chúng ta có đang học lấy đức Khôn Ngoan để biết dùng tiền của cho đúng với mục đích của nó hầu mưu ích cho phần rỗi của mình và giúp ích cho kẻ khác, hay đang tôn thờ tiền của, phương hại cho mục đích tối thượng của đời mình?

 

61. Suy niệm của Chiara Lubich.

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”

Lời này là mấu chốt giúp ta hiểu lập trường của Đức Giêsu đối với của cải. Hình ảnh thật mạnh mẽ, nghịch lý, theo kiểu văn phong Xê-mít. Của cải và Nước Thiên Chúa là không tương thích, và có muốn tìm cách giảm nhẹ một giáo huấn xuất hiện nhiều lần trong lời giảng của Đức Giêsu cũng vô ích. Chẳng hạn, Người nói không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon (nghĩa là tiền của) được. Người dường như đòi hỏi nơi chàng thanh niên con nhà giàu những từ bỏ mà đối với con người là không thể được nhưng đối với Thiên Chúa thì có thể.

Nhưng ta hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đích thực của lời này từ chính Đức Giêsu, từ mối quan hệ của Người với những người nhà giàu.

Người cũng giao du với những người khá giả. Với Da-kêu, là người đã cho đi chỉ có phân nửa tài sản của mình, Người nói: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Ngoài ra, Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy việc các Kitô hữu để của cải làm tài sản chung trong Hội Thánh tiên khởi chỉ là sự tự phát, tự nguyện thôi.

Bởi thế, Đức Giêsu đã không có ý định chỉ thành lập một cộng đoàn gồm những người được kêu gọi theo Người, từ bỏ toàn bộ tài sản của mình.

Ấy thế mà Người phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”

Vậy Đức Giêsu lên án điều gì? Chắc chắn không phải của cải trên trái đất này, nhưng là việc ta gắn bó với nó.

Tại sao vậy?

Thật rõ ràng: vì mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, thế mà người giàu có lại xử sự như thể của cải thuộc riêng bản thân mình.

Sự thật là của cải dễ dàng chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn con người; của cải làm ta mù quáng và giúp mọi tật xấu sinh sôi nảy nở. Tông đồ Phao-lô viết: “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé”.

Vậy thì người có của nên có thái độ nào? Họ cần giữ cho tâm hồn của mình được tự do, hoàn toàn bỏ ngỏ cho Thiên Chúa. Họ nên nhận thức rằng mình là người quản lý những của cải của họ, và như Đức Gio-an Phao-lô II nói, họ nên biết rằng những của cải này là “tài sản cầm cố của xã hội”.

Vì của cải trên thế gian này tự bản chất không xấu, cho nên không được khinh chê của cải, mà phải sử dụng nó cho tốt.

Tâm hồn ta, chứ không phải bàn tay ta, mới phải lánh xa của cải. Vấn đề là phải biết sử dụng nó để làm ích cho tha nhân.

Ai giàu có là giàu có vì lợi ích của tha nhân.

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”

Có người sẽ nói: tôi đâu có giàu, nghèo rớt mùng tơi thì có, thành thử những lời này không áp dụng đối với tôi.

Ta phải thận trọng. Câu hỏi mà các môn đệ đã sửng sốt hỏi Đức Kitô ngay sau khi nghe lời tuyên bố ấy là: “Thế thì ai có thể được cứu độ?” Câu này rõ ràng hàm ý một cách nào đó lời ấy ngỏ với mọi người.

Ngay cả người đã từ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô cũng có thể dính bén, vấn vương hàng nghìn thứ. Ngay cả người nghèo, trong bị thì chỉ có mỗi một mẩu bánh mà ngoài miệng sẵn sàng rủa sả bất kỳ ai đụng tới mẩu bánh vụn ấy cũng có thể là người giàu có trước mắt Thiên Chúa.

Ấy vậy mà, trong lịch sử Hội Thánh, có nhiều người giàu có đã chẳng bỏ đi. Họ đã đi theo Đức Giêsu trên con đường nghèo khó một cách triệt để nhất. Đó là trường hợp của Eletto, mà tôi biết rõ: một thanh niên cao to, đẹp trai, thông minh và giàu có. Khi nghe tiếng Thiên Chúa gọi hãy theo Người, anh không chút do dự. Anh đã chẳng ngoảnh mặt đi. Của cải dường như không tồn tại đối với anh. Anh đã cho đi toàn bộ tài sản và ngay cả mạng sống của mình. Anh đã chết đuối trong một cái hồ đang khi thực hiện một hành vi bác ái đối với một bé trai; năm đó anh mới 33 tuổi. Tại chính nơi đó, bên bờ hồ, những lời sau đây đã được viết lên một bia tưởng niệm: “Tôi đã chọn duy chỉ Thiên Chúa, chỉ Thiên Chúa mà thôi, không gì khác”.

Khi xuất hiện trước Đức Giêsu, chắc chắn Eletto đã chẳng nghe những lời này: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.

 

62. Suy niệm của Lm Mark Link.

VÌ TÌNH YÊU CHÚNG TA PHẢI LÀM NHIỀU HƠN NỮA

“Chỉ cần chúng ta tiến về phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mừơi bước”

James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: “Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm”.

Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; “Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm”.

***

Câu chuyện trên giúp ta hiểu rõ điều Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Người nông dân có khả năng canh tác tốt hơn nhưng ông ta lại thiếu nhiệt tình để dấn thân làm điều ấy. Chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng cũng dư sức làm nhiều hơn là chỉ tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta chả có nhiệt tình để làm điều ấy. Bài Phúc Âm hôm nay nói thẳng cho ta thấy Kitô giáo không chỉ hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền. Chúa Giêsu tra vấn anh chàng giàu có về sự tuân giữ lệnh truyền như là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Chàng trả lời là đã tuân giữ tất cả lệnh truyền ấy, tức là chưa hề làm gì thương tổn ai… Về điểm này Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta. Nhưng đồng thời Ngài lại cho chàng ta thấy rõ Kitô giáo không chỉ là việc tuân giữ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp hay lừa đảo…. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều: Ngài nói thẳng với anh chàng giàu có:

“Anh chưa bao giờ gây thương tổn cho ai quả là đáng khen, nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã biết dùng của cải để cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ vô gia cư trú ngụ chưa?”

Chính khi nghe điều này anh chàng giàu có kia nhận ra mình vẫn còn khiếm khuyết biết bao. Vì vậy Chúa Giêsu bèn thách thức anh: ‘Nếu muốn theo tôi thì anh hãy thay đổi cách nhìn đi, đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, tỉ như không gây thiệt hại cho ai – và anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau”

Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho anh chàng giàu có thể tóm lược như sau; Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống vĩnh cửu, cũng như để theo tôi không?

Anh chàng giàu có trả lời:

– Thưa thầy, tôi cũng muốn theo Ngài lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia;

Thế là anh chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc dùng của cải không chỉ cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.

Điều này bày ra trước mắt mỗi người chúng ta ngay bây giờ hình ảnh sau: Nhiều người trong chúng ta giống như anh nông dân ngồi chơi trước cổng nhà. Chúng ta biết rõ chính mình có thể trở thành một Kitô hữu, tốt hơn gấp mười lần tình trạng hiện nay nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.

Chúng ta khác nào anh chàng giàu có trong Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cũng đã tuân giữ những luật truyền, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại hết sức có thể đối với những người túng thiếu, kẻ trần trụi và người đói khát.

Vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy đó là cần thiết để đem lại an bình và vui tươi trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: cấm hại người, cấm gian dối, cấm trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không nói dối, không xúc phạm đến cô ấy.. Tình yêu khiến anh phải làm hơn như thế rất nhiều, và nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, chúng ta mới chỉ là người “quen biết” với Chúa, chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu, chúng ta chưa yêu Chúa và thương tha nhân.

Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã biết mình phải làm gì để trở thành một Kitô hữu tốt hơn gấp mười lần hiện nay, nhưng chúng ta đã không làm, vì chúng ta thiếu tình yêu, thiếu nhiệt tình. Cũng như anh chàng nông dân ngồi trên ghế xích đu kia, anh đã biết rõ phải làm gì để canh tác có hiệu quả gấp mười lần phương pháp anh đang làm, nhưng anh đã không thèm làm. Lý do có thể là anh ngại ngùng phải bỏ vốn ra nhiều hơn, phải bỏ ra nhiều công sức hơn, phải mệt mỏi hơn. Lý do sâu xa hơn khiến anh ngại là vì anh chưa thấy nhu cầu của vợ con anh đang càng ngày càng tăng lên, hay anh chưa đủ quan tâm đến những nhu cầu ấy, hay nói cách khác đi là tình yêu của anh đối với những người thân của mình chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh hoạt động, làm những gì phải làm và nên làm.

Tình trạng đó Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được nơi con người của ngài. Ngài viết: “Quả thực ngay những gì điều tôi làm tôi cũng không hiểu được nữa, vì những gì tôi muốn thì tôi lại không làm, còn những gì tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15). Và ngài đã giải thích tình trạng đó như sau: không phải là tôi hành động, mà là tội lỗi ở trong tôi đã hành động (Rm 7:20). Và theo ngài chỉ có Đức Kitô mới có thể cứu ta ra khỏi tình trạng ấy. (Rm 7:24). Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng ù lỳ không chịu làm những gì cần phải làm, ta phải tin tưởng vào ngài đã đến để giải phóng ta khỏi tình trạng đó, và ta cũng phải hết lòng yêu mến ngài qua những người sống bên cạnh ta, chung quanh ta. Chỉ có tình yêu mới giải phóng ta khỏi tình trạng ù lỳ đó. Tình yêu phát sinh sức mạnh.

Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì mình đã theo được chính đạo, và tự mãn vì mình đã giữ luật Chúa một cách trọn vẹn từ hồi nhỏ, giống như anh chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là một điều rất đáng khen, và Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước kia, là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Thiên Chúa và tha nhân. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, hay cần tới sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta, chúng ta không thể vừa nói mình yêu Chúa lại vừa làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu đó của anh em. Và chúng ta cũng cần phải có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất. Để đi vào cụ thể, tôi xin đề nghị với anh chị em là mỗi ngày chúng ta dành ra ít phút suy nghĩ để xét xem những người ở gần ta có nhu cầu gì mà ta có thể giúp đỡ cụ thể được, và chúng ta quyết định mỗi ngày làm một hai việc cụ thể giúp ích cho người khác, việc đó càng buộc ta phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát thì càng tốt, và tối đến ta xét lại xem mình đã thực hành quyết định đó thế nào. Làm được như thế, chính là đã áp dụng phần nào tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.

Để kết thúc, tôi xin nhắc lại lời kinh Cáo Mình mà chúng ta đọc mỗi khi chuẩn bị dâng Thánh Lễ, trong đó có câu; “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Tôi xin nhấn mạnh đến “những điều thiếu sót”, là những gì mà chúng ta đáng lẽ phải làm, nên làm, mà chúng ta đã không làm. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải ra tay cứu giúp người khác mà ta đã không ra tay. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải hy sinh cho người khác mà ta đã không hy sinh, vì chúng ta không muốn bị thiệt thòi, bị mất mát, bị phiền hà, là những lần đáng lẽ chúng ta phải bỏ tiền bạc ra để cứu giúp ai đó, nhưng vì tính bỏn xẻn, tính toán, khiến chúng ta lại thôi. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải can đảm đứng ra bênh vực lẽ phải, nhưng vì sợ bị liên lụy, sợ bị lôi thôi, mà chúng ta đành làm ngơ để cho bất công được tự do hoành hoành. Mỗi lần đọc kinh Cáo Mình khi dâng Thánh lễ, chúng ta phải nghĩ đến những thiếu sót đó.

 

63. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

KÊU GỌI NGƯỜI ĐÀN ÔNG GIÀU CÓ (10,17-22)

Một khung cảnh khá thi vị đã đưa đoạn Phúc Âm mới mẻ này vào mục bàn về cách thức để trở nên môn đệ CHúa Giêsu. Một người đàn ông chợt xuất hiện cản lối Chúa Giêsu (c.17a). như ta sẽ thấy, người Do Thái này biểu lộ lòng kính trong hiếm có đối với Chúa. Cử chỉ quỳ gối của anh ta nằm trong nghi thức phụng vụ (chúng ta đã thấy cử chỉ này nơi người phong hủi: 1,40). Con người vô danh nọ khen tặng Chúa Giêsu bằng cách gọi Ngài là “Thầy nhân hậu” (c.17b). Tuy nhiên, Chúa Giêsu thoái thác lời ca tụng này. Ngài tuyên bố: “Không có ai nhân hậu cả trừ mình Thiên Chúa” (c.18). Hẳn người ta ngạc nhiên về lối đối đáp này. Đứng trước kẻ lạ mặt tượng trưng cho “dân Chúa chọn” trước hết Chúa Giêsu muốn tái xác định điều cốt lõi trong đức tin Do Thái. Chỉ mỗi Thiên Chúa, trong sự siêu vượt tuyệt đối của Ngài mới thủ đắc: “Sự nhân hậu”. Sau khi tán dương Chúa Giêsu người nọ liền đưa ra một câu hỏi thích đáng: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (c.17c). Lo tìm hạnh phúc tương lai là điều đáng khái niệm nơi những người Do Thái đạo đức, dẫn đầu là đám biệt phái. Chắc hẳn Chúa Giêsu tán đồng câu hỏi này. Và rồi như bất cứ vị giáo sĩ đương thời nào Chúa Giêsu bắt đầu nêu lên rõ ràng những gì theo truyền thống Do Thái cũng như tư tưởng riêng cá nhân Ngài cho là cốt lõi của luật Môsê. Với tư cách sành sỏi lề luật, trước hết Chúa Giêsu trưng dẫn cho anh ta những đoạn rút từ Mười giới luật (Xh 20,1-17) tức những giới luật Chúa truyền dạy liên quan đến tình yêu đồng loại. Câu “chớ làm hại ai” được thêm vào bản văn Kinh Thánh nhưng tóm tắt được tinh thần toàn bộ văn bản.

Như thế trước con mắt Chúa Giêsu, thực thi giới luật của Chúa là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “cuộc sống đời đời”. Là người thân thiết với bộ luật Torah, anh nọ liền mau mắn trả lời với Chúa Giêsu anh đã “giữ” tất cả các giới luật này từ thời niên thiếu (c.20). Điều ấy chứng tỏ sự ngay thẳng và ngoan đạo của người Do Thái này. Chúa Giêsu lấy làm phấn khởi, và Maccô thích thú ghi nhận điều đó (c.21a). Nơi tác giả Phúc Âm này, cái nhìn của Chúa Giêsu luôn chứa đựng một điều gì đó khó quên được. Đa số thường là cái nhìn giận dữ (3,5; 10,14) hoặc dò xét (3,34; 5,32; 10,23); thế mà ở đây lại là cái nhìn đầy trìu mến, quý chuộng sâu xa. Thành ngữ kế tiếp: “Ngài đem lòng yêu mến” diễn ta một sự phong phú bất ngờ. Trong Cựu ước, tình yêu Thiên Chúa đã khiến Ngài chọn Israel làm dân riêng Ngài (x.Đnl 7,7-8). Cũng chính tình yêu Thiên Chúa thôi thúc Chúa Giêsu chọn lựa người Do Thái tín trung này. Sự chọn lựa được biểu lộ bằng một lời kêu gọi có tính cách đòi hỏi khác thường (c.21b).

Lời kêu gọi ấy đã nhận được một âm hưởng sâu xa trong Giáo Hội. Trong Giáo Hội sơ khai một trong những dấu chỉ của sự “hoán cải về với Chúa Kitô” và thuộc về cộng đồng Kitô hữu chính là sự chia sẻ của cải để phục vụ những kẻ nghèo khó nhất (Cv 2,44; 4,32-35). Tuy nhiên, ở đây trước hết phải nhớ rằng lời kêu gọi của Chúa Giêsu đang ngỏ với một trường hợp riêng biệt, tức ngỏ với người đàn ông đang đứng trước mặt Ngài. Ngài yêu cầu anh ta bỏ tất cả mọi sự để theo Ngài. Đây là lời yêu cầu không phải được nói với tất cả mọi người. Vào đầu Phúc Âm, người ta tìm thấy lời yêu cầu này khi Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20). Chỉ với một số người, chứ không phải với tất cả mọi người, Chúa Giêsu đề nghị họ giải thoát mọi vướng bận để bước theo Ngài. Trước hết, chính kiểu sống này đã được Chúa Giêsu chọn cho mình trong khi thi hành sứ vụ: Ngài là một thừa sai lang thang, hy sinh tối đa những điều kiện của một cuộc sống bình thường, chẳng hạn một mái ấm gia đình và của cải. Hiện nay, Chúa Giêsu vẫn còn đưa ra lời kêu gọi kiểu ấy. Tuy nhiên tất cả ý nghĩa lời mời gọi Ngài nói với người Do Thái trung tín đang chất vấn Ngài hệ tại những từ ngữ này: “Hãy đến và theo tôi” (c. 21d), nghĩa là hãy “đi xa hơn đức tin của cha ông anh” và hãy khởi sự một hành vi hoàn toàn mới mẻ là trở nên “môn đệ của” Đấng Mêsia là chính tôi đây (x.1,17; 2,l4). Sự vượt qua này quả không dễ dàng đúng như sự từ chối của người nọ chứng tỏ (c.22) chỉ mãi đến lúc này chúng ta mới biết được người ấy rất giàu và chính sự giàu có đã ngăn cản không cho anh ta tích cực đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu. Trong cuộc trò chuyện tiếp theo sau đó với các môn đệ, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh điều ấy: Chiếm hữu của cải là một chướng ngại lớn lao ngăn cản người ta bước theo Ngài, bởi vì điều này đòi hỏi sự siêu thoát tự nguyện (x.10,23-31). Ngay lúc đó, chỉ cần người đàn ông được Chúa Giêsu ngỏ lời biết rằng sau khi siêu thoát mọi của cải trần thế của mình, anh ta sẽ được “một kho tàng trên trời” (c.21c)!

Đoạn Phúc Âm này cho chúng ta tham dự vào một ơn kêu gọi bất thành. Tuy nhiên vượt qua trường hợp cá biệt được nêu ra đây, toàn thể truyền thống Phúc Âm đều xem đó là một “bài học kiểu mẫu” (Mt 19,16-22 và Lc 18,18-23). Đằng sau khuôn mặt người Do Thái tín trung với lề luật Môsê từ tấm bé diễn ra lịch sử dân tộc Israel, một dân tộc lấy Thập giới làm quy luật sống để hướng tới “cuộc sống vĩnh cửu” là kho tàng Thiên Chúa hứa cho dân Ngài. Còn ở đây Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng Mêsia đến để mặc khải một đòi hỏi cao hơn tôn giáo của người Do Thái. Ngài đòi hỏi đám dân biết tuân giữ luật Thiên Chúa một điều “cao hơn nữa” (x. “Anh chỉ còn thiếu có một điều…” (c.21a). Tin Mừng Chúa Giêsu đề nghị là lời kêu gọi vượt cao hơn. Trung thành với giới luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước “theo” chính Đấng Mêsia nữa. Điểm chính yếu trong trình thuật này không phải hệ tại việc từ bỏ của cải mà hệ tại việc gắn bó với chính Chúa Giêsu; đức tin Kinh Thánh vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do Thái giáo. Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện người đàn ông giàu có này được kể lại ngay giữa cuộc hành trình quyết liệt của Chúa Giêsu tiến về cuộc khổ nạn của Ngài (từ 9,30-31). Không thể theo Chúa Giêsu, tức không thể trở thành Kitô hữu, nếu không biết tự thoát.

NƯỚC THIÊN CHÚA VÀ CỦA CẢI (10, 23-31)

Lời từ chối vừa rồi của người đàn ông giàu có (10,17-22) là dịp để Chúa Giêsu giúp các môn đệ hiểu biết thêm. Giữa Nước Thiên Chúa và của cải có sự tương hợp nào chăng? Một lần nữa Chúa Giêsu đảo mắt nhìn các môn đệ (x. 3,34-35) điều này dự báo Ngài sắp sửa đưa ra một lời dạy quan trọng (c.23a). Và đây là lời dạy đó: “ Những người có của mà vào được trong Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!” (c.23b). Phản ứng của đám bạn hữu Chúa Giêsu cho thấy rõ tâm trí họ phản đối không muốn tiếp nhận một sứ điệp như thế (c.24a). Chúa Giêsu buộc phải nhấn mạnh lần nữa lời cảnh giác của Ngài (c24b). Và để minh họa rõ sự khó khăn này, Ngài đã sử dụng một hình ảnh mà sau này đã trở nên phổ biến: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (c.25). Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng phép khuyếch đại. Người Đông phương rất thích dùng những kiểu nói khoa trương như thế để kích thích sự chú ý. Và vào thời đó, hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình diễn đạt tuyệt hảo hình ảnh người giàu bị vướng tay vướng chân vì của cải.

Chúa Giêsu rất rành nghệ thuật kích thích cho kẻ khác phải suy nghĩ. Các môn đệ cực kỳ chưng hửng đã đạt ra cho Ngài câu hỏi sau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (c.26). Ai cũng biết Maccô thường có thói quen nêu bật “sự ngu muội” của các môn đệ trước lời giảng dạy khó hiểu của Thầy mình. Lần này, họ cũng ráng hỏi xem cho biết có kẻ nào, ở vào những điều kiện giàu có này, được cơ may cứu độ chăng. “Chúa Giêsu nhìn họ (một lần nữa Ngài muốn khắc ghi vào đầu óc họ tư tưởng của Ngài) và trả lời: “Đối với loài người thì không thể được nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (c.27). Lời quả quyết này rất rõ ràng. Ơn cứu độ hoàn toàn vượt qua những khả năng của loài người. Đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa vì chỉ mình Thiên Chúa mới “có thể” cứu độ loài người.

Chắc chắn quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn lời cảnh giác trước đó nữa. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô người đứng đầu trong nhóm họ (c. 28). Nhân danh nhom Mười Hai, Phêrô thắc mắc muốn biết sự dấn thân của toàn nhóm họ theo Chúa Giêsu có được thưởng gì không? Người ta còn nhớ rõ Maccô đã đánh giá cao việc các môn đệ đầu tiên khi vừa nghe Chúa gọi đã bỏ gia đình và của cải để trở thành môn đệ Ngài (1,16-20). Không lẽ lòng quảng đại lớn lao của họ lại vô ích sao? Nếu đám người giàu có, mặc dù lắm của cải vẫn không thể vào Nước Thiên Chúa thì đã dành, còn những kẻ từ bỏ cả những của cải hợp pháp nhất liệu không có cơ may được vào nơi đó? Những kẻ từ khước các người thân yêu và của cải quý giá để gắn bó với Chúa Giêsu thì chắc chắn sẽ lãnh được một phần thưởng không nhỏ. Và lần này Chúa Giêsu lại dùng phép khoa đại theo lối Đông phương. Họ sẽ nhận “gấp trăm”: trăm lần nhiều hơn những gì họ đã từ khước.

Maccô rất ý thức rằng những gì ông viết ra đây tác động mạnh đến tâm hồn các Kitô hữu Rôma của ông. Để hoán cải về với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài (“vì Thầy và vì Tin Mừng”) một số người trong họ đã phải chịu những chia lìa đớn đau với cha mẹ cũng như phải từ bỏ quyền tài sản của mình. Phúc Âm gia nhấn mạnh: theo gương Chúa Giêsu Đấng đã từng hứng chịu những sự chia lìa này, các Kitô hữu đã tìm thấy được trong cộng đoàn Kitô hữu một gia đình mới và những của cải mới (x, 3,31-35). Ngay từ bây giờ, Chúa Giêsu đã cho họ nếm được chút ít hương vị của diễm phúc tương lai tức “cuộc sống vĩnh cửu”. Tuy nhiên Maccô vẫn nhận thức rõ hiện trạng của các Kitô hữu này không phải là không đen tối. Là người thực tế, Maccô đã chêm “những cuộc bách hại” vào trong chuỗi “phần thưởng” được hứa hẹn! Ông đã đọc lại bằng những từ ngữ tương tự những gì trước đó Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Kẻ nào đánh mất mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (8,35). Đoạn Phúc Âm này kết thúc bằng một câu nói mang dáng dấp ngạn ngữ: “Nhiều người trước hết sẽ thành rốt hết, và những người rốt hết sẽ thành trước hết” (c. 31). Câu này xem ra chẳng liên hệ gì đến những điều Chúa Giêsu vừa mới nói về trở ngại của sự giàu có ngăn cản người ta vào Nước Trời. Đây hẳn là một câu nói “trôi nổi” đâu đó của Chúa Giêsu mà các Phúc Âm gia đã quên mất là Chúa đã nói câu ấy chính xác vào dịp nào. Mỗi người tháp nhập câu nói ấy vào một mạch văn khác nhau (x. Mt 19,30 và 20,16). Khởi đầu, câu ấy có thể nhắm đến việc thay đổi tình trạng. Những “kẻ trước hết” tức những người Do Thái, thành viên của dân được Chúa chọn, đã không đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Họ đã đánh mất đi hồng ân được Chúa chọn. Còn “những kẻ rốt hết” tức đám dân ngoại thay thế chỗ của dân Do Thái, đang ào ạt gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên ở đây đối với Maccô, câu nói lẻ loi này mang một ý nghĩa khác, khá phù hợp với tình cảnh hiện thời. Các Kitô hữu bị bách hại được xếp vào hạng người rốt hết trong nhân lọai! Và họ được hứa hẹn sẽ hoàn toàn thoát ra khỏi tình cảnh hiện tại của họ.

Toàn bộ những gì chúng ta vừa đọc nơi Maccô (10,23-31) hầu như cũng thấy ghi lại trong Phúc Âm Matthêu (19,23-30) và Phúc Âm Luca (18,18-30). Điều đó chứng tỏ đây là một giáo lý rất lâu đời nói về “những cám dỗ của sự giàu có” rất dễ bóp nghẹt Lời Chúa trong trái tim các tín hữu. Tư tưởng Chúa Giêsu khởi từ những của cải vật chất (c. 23-27) để lan rộng đến những mối dây liên hệ gia đình (c. 28-31). Chắc chắn tư tưởng này đáp ứng được những vấn đề đặt ra cho Giáo Hội sơ khai một khi nó bành trướng đến những vùng dễ sống hơn. Cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên đã cố gắng nêu gương bằng cách phân chia của cải chung với nhau đến nỗi ở đó không còn người nghèo nữa (x. Cv 4, 32-34).

Cùng đọc song song ba Phúc Âm Maccô, Matthêu và Luca, chúng ta sẽ thấy các vấn đề liên quan đến “đời sống cộng đoàn” đều được mỗi tác giả gom chung vào với nhau. Chính vì thế mà trong ba Phúc Âm nhất lãm, các ý kiến sau đây về các vấn đề của Chúa Giêsu được xếp chung theo cùng một trật tự – Vấn đề hôn nhân và ly dị (Mc 10,1-12) – Trẻ em và những và những kẻ giống như chúng (Mc 10,13-16) – Kêu gọi người đàn ông giàu có (Mc 10,17-22) – Nước Thiên Chúa và của cải (Mc 10,23-31).

Khuôn khổ mà các chủ đề này được đề cập đến thích hợp thật diệu kỳ với chúng ta. Đây là dịp Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để Ngài cảm nhận ở đó sự từ bỏ chua cay nhất là tức là cái chết. Giữa lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,30-31) và lần thứ ba sắp xảy ra (10, 32-34), chủ đề “Con đường đạo” đương nhiên cho phép chúng ta xem xét đến những điều kiện để theo Chúa Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng tiếp nhận đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để theo Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ