Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1379463

KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN

KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN (*)-  Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.

Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30).

Anh chị em thân mến.

Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống như bài Tin Mừng tuần trước: trong Hội đường của người Do thái ở Nazatreh, quê hương của Chúa Giêsu. Khán giả nghe Chúa nói hôm nay cũng là những người quen thuộc với Chúa. Điều khác biệt mà bài Tin Mừng hôm nay muốn cho chúng ta thấy không phải là những lời do Chúa dậy mà là thái độ của những  người nghe Chúa hôm đó. Thái độ đó như thế nào? Lúc đầu là thiện cảm và thán phục. Sau đó là bất mãn và căm phẫn và cuối cùng là muốn thủ tiêu Chúa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ở đây là tại sao thái độ ấy lại có thể thay đổi mau chóng và quyết liệt đến như thế? Chúng ta sẽ tìm hiểu lý do.

Như Tin Mừng Mathêô, Marco và Luca thuật lại thì trước khi về Nazareth Chúa đã làm hai Phép lạ tại Carphanaum: Một là phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết; hai là Chúa phục sinh đứa con gái của ông hội trưởng hội đưởng ở đó. Chắc chắn những điều ấy đã đến tai những người ở Nazareth vì Nazareth và Carphanaum cách nhau không bao xa.

+ Một Chúa Giêsu được đã nổi tiếng như thế bây giờ trở về quê hương của mình thì làm sao mà những người đồng hương cùng sống với Chúa bao nhiêu năm trời …lại không cảm thấy tự hào? Chắc chắn là phải có.

Tin Mừng cho chúng ta thấy tất cả những người có mặt trong hội đường hôm đó đều cảm thấy tràn ngập sự thán phục trước những lời đầy vẻ duyên dáng của Chúa. Họ ngỡ ngàng trước con người mà họ đã từng quen biết từ bao nhiêu năm nay….ngỡ ngàng đến nỗi họ phải thốt lên: “Người này không phải là con của ông Giuse đó sao? (Mc 6,2-4). Bởi đâu ông ấy được như thế? – Tại sao mà ông ta được khôn ngoan như vậy? – Ông ấy không phải là con bác thợ mộc, mẹ của ông ta không phải là bà Maria và anh em của ông ta không phải là Giacôbê, Giuđa và Simon đó sao vv và vv.

+ Nhưng rồi đàng sau sự tự hào đó là một cái gì khác hơn. Luca không nói trắng ra những gì họ mong ước nơi Chúa nhưng Luca cho chúng ta thấy chính Chúa đã thấy rõ ý đồ của họ nên Chúa đã vạch mặt chỉ tên những gì mà họ mới chỉ mong ước ở trong lòng: “Hẳn các ngươi sắp nói cho ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc hãy tự cứu lấy chính mình. Những gì chúng tôi nghe đã xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông đi” Không biết anh chị em nghĩ sao chứ riêng tôi tôi tưởng những người ở Nazareth mong ước như thế cũng là lẽ rất thường tình. Thế nhưng ở đây Chúa lại từ chối. Không những Chúa không đáp ứng những gì người đồng hương của Ngài mong mỏi mà ngược lại thái độ của Chúa xem ra có vẻ khiêu khích và thách thức đối với họ cho nên từ thái độ cảm phục tự hào lúc ban đầu, những người Nazareth đã chuyển qua thái độ bất mãn và thậm chí còn muốn giết cả Chúa.

Tại sao Chúa lại đối xử với họ như thế? Một số nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng:

+ Những mong ước của họ quá ích kỷ.

Họ tưởng họ là người đồng hương với Chúa và họ có quyền đòi hỏi Chúa phải ưu tiên làm cho họ những gì họ mong muốn.

Còn Chúa thì rõ rệt là Ngài không muốn như thế. Ngài là Thiên Chúa của mọi người. Con người không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì từ Thiên Chúa. Thiên Chúa hoàn toàn tự do.

Những người ở Nazareth cay cú không phải là vì Chúa vung vãi những phép lạ trong những thành khác và từ chối không làm ở quê hương, nhưng họ cay cú vì Chúa đã dùng hai thí dụ thời ngôn sứ Êlia và Êlisê để nói thẳng cho họ biết rằng Ngài có quyền làm Phép lạ cho cả dân ngoại, coi dân ngoại ngang hàng và nhiều khi còn có vẻ ưu tiên hơn cả dân Do thái. Điều đó đối với họ thật là quá đáng và chính vì thế mà họ tỏ ra phẫn nộ mặc dầu họ rất cảm phục trước những lời từ môi miệng Ngài nói ra.

+ Lý do thứ hai theo Charde R. Erdman: Tại họ chưa đủ niềm tin nơi Chúa. Sở dĩ như thế là vì họ quá quen với Chúa. Ông nói:”Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường lại không thể nhận ra hết sự vĩ đại của họ và nhiều khi người ta không hiểu được những kẻ mà họ tưởng là quen biết hơn hết”

Xin được minh họa bằng một chứng từ có thật:

Một hôm cậu bé Tagore làm thơ và đưa lên cho cha cậu xem. Ông thân sinh chê:

– Dở lắm!

Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bỉu môi:

– Thơ này là thơ thẩn!

 Tagore mới nghĩ ra một kế. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích sao trong một tập thơ cổ. Cậu lại đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận. Lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:

– Tuyệt !tuyệt! – rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học:

– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này!

 Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên tờ báo của ông. . . Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề ghi xuất xứ khi đăng.

Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình trước đó.

Ngạn ngữ của chúng ta có câu: Quen quá hóa nhàm.

Hay câu khác: Gần chùa gọi Bụt bằng anh.

Con người thường hay phán đoán người khác theo những tiêu chuẩn nhiều khi rất giả dối, có khi chỉ theo những giáng vẻ bên ngoài thậm chí nhiều khi còn chụp lên họ những hình ảnh hoàn toàn méo mó theo cách nhìn và cách phán đoán rất chủ quan của mình.

Nhưng người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Họ tưởng được gần gũi với Chúa bao nhiêu năm trời là họ đã hiểu được Chúa. Thật là sai lầm. Đối với họ Chúa dù có thế nào đi nữa thì cũng chỉ là con bác thợ mộc………Trong trường hợp như thế nếu Chúa có làm được phép lạ thì phép lạ của Chúa cũng chẳng có được một giá trị nào ngoài việc thỏa mãn sự tò mò của họ. Và chính vì thế mà Chúa đã không làm được phép lạ nào. Ngược lại Chúa còn phải buồn mà nói cho họ biết một sự thực này: “Không một tiên tri nài mà được nổi tiếng tại quê hương mình”

Thế là những người đồng hương với Chúa đã để mật một cơ hội bằng vàng để được hưởng những hồng ân Chúa ban cho.

Còn chúng ta thì sao? Trên đời có những cơ may chỉ đến có một lần. Hãy biết quí trọng những hồng ân Chúa ban cho chúng ta hằng ngày.

Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết rơi lệ khi tổn thương, biết đau đớn khi mất mát, biết khát khao và nuôi dưỡng những giấc mơ, biết cố gắng làm lại khi thất bại, bởi vì chỉ có như vậy, mọi người mới biết trân trọng những gì đã và đang đến trong cuộc đời mình.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- NĂM C

NGÔN SỨ- Trích Logos C

Ngày xưa các sĩ tử Bỏ ra Bao công sức để dùi mài kinh sử, đợi đến khi nhà vua mở khoa ứng thí thì kéo nhau về kinh để thi cử. Ai đỗ đạt thì làm ông Cống, ông Nghè, ông Trạng. Đỗ đạt làm quan là một vinh dự tột Bậc cho các sĩ phu. Họ sẽ về quê để “vinh quy Bái tổ” trong sự đón tiếp nồng hậu của Bà con đồng hương. Đó cũng chính là sự hãnh diện cho kẻ đỗ đạt, và là sự tự hào của dân làng đồng hương. Nhưng đôi khi sự hãnh diện và tự hào đó trở thành sự vênh vang và tự cao tự đại. Như câu chuyện dân gian kể lại như sau :

Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng siêng năng và học giỏi được Ngọc Hoàng trên Thiên Đình ghi tên vào sổ Thiên Tào cho đậu tiến sỹ, làm quan Thượng Thư. Ngọc Hoàng Báo mộng cho ông Từ một ngôi đền mà người học trò thường ghé chân nghỉ ngơi. Ông Từ cho người học trò Biết tin vui ấy. Từ đó trở đi, anh ta vênh váo tự đắc với hết mọi người. Anh ta từ Bỏ người vợ xấu xí, đe dọa dân làng và hàng tổng, huênh hoang tự phách lối với hết mọi người. Ngọc Hoàng thấy vậy liền gạch tên anh ta trong sổ Thiên Tào, không cho đỗ đạt nữa. Quả nhiên, sau đó người học trò thi mãi không đỗ, đành mất vợ, mất cả cửa nhà.

Từ câu chuyện này, dân gian mới có câu tục ngữ : “Chưa đỗ Ông Nghè đã đe hàng Tổng”.

Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca kể lại câu chuyện Chúa Giêsu trở về Nazareth là quê hương mình và giảng dạy trong Hội Đường.

Có lẽ những người đồng hương của Chúa đã tự hào coi Chúa như Ông Nghè về làng “vinh quy Bái tổ”. Họ mong Chúa làm vài phép lạ như Chúa đã từng làm ở những nơi khác, như Capharnaum chẳng hạn, để cho họ được “nở mày nở mặt”.

Nhưng khác với người học trò trong câu chuyện, Chúa Giêsu không phải là loại “ông Nghè” khoa Bảng, mong chiếm được Bảng vàng để được Bả vinh hoa phú quý, kênh kiệu với mọi người, nhất là đối với những người đồng hương.

Chúa Giêsu cũng khác với các ông Biệt Phái, các thầy Pharisiêu, các Tiến Sỹ luật, là những loại “ông Nghè” luôn tự đắc về “tài cao đức trọng” của mình mà kiêu hãnh với mọi người.

Chúa Giêsu trở về Nazareth, thật khiêm tốn như một Ngôn Sứ Của Sự Thật.

Cũng như ngôn sứ Giêrêmia, được diễn tả trong Bài đọc thứ nhất, và cũng giống như các ngôn sứ khác, Chúa Giêsu đóng đúng vai trò của một ngôn sứ : là kẻ phải chấp nhận những hy sinh gian khổ, chấp nhận Bị xua đuổi, Bị chống đối, và thậm chí Bị giết chết, để tuyên rao lời Thiên Chúa, để nói sự thật cho mọi người.

Chúa nói thẳng nói thật : “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Chúa muốn phá tan niềm kiêu hãnh của những người trong gia đình và thân tộc muốn dựa vào “Con ông cháu cha” để tự mãn với mọi người. Chúa cũng muốn phá vỡ não trạng ích kỷ và vụ lợi của họ: “Một người làm quan cả họ được nhờ”.

Vì vậy, Chúa nêu lên hai trường hợp dân ngoại được Thiên Chúa cứu chữa :

Một là trường hợp Bà góa tại Sarepta được Chúa cứu đói thời tiên tri Êlia.

Hai là trường hợp ông Naaman, người Syria được Chúa chữa khỏi Bệnh phong cùi thời tiên tri Êlisêô.

Như thế, Chúa khẳng định rằng : tình thương của Thiên Chúa được Ban cho hết mọi người, mọi dân tộc. Ơn cứu độ luôn mang tính phổ quát.

Những lời nói thật của Chúa Giêsu đã dẫn đến một hậu quả phũ phàng : Dân chúng lòng đầy căm phẫn, trục xuất Ngài ra khỏi thành, dẫn Ngài lên triền núi và xô Ngài xuống vực thẳm. Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi. Đây chính là kết cục tất yếu của cuộc đời vị ngôn sứ : trả giá Bằng đau khổ vì đã làm chứng cho sự thật.

Hôm nay, chúng ta được mời gọi để đi theo Vị Ngôn Sứ Tối Cao là Chúa Giêsu :

Hãy Biết nói sự thật dù “sự thật mất lòng”. Không chỉ “mất lòng” mà còn mất nhiều thứ : mất việc, mất khách, mất mối, đôi khi Bị mất mặt hoặc làm mất mặt người khác. Vì sợ mất cái này, cái khác, nên người ta sợ nói sự thật. Nhưng các ngôn sứ còn chấp nhận mất cả mạng sống để nói và Bảo vệ sự thật thì sao ?

Hãy Biết nghe sự thật vì “thuốc đắng giã tật”. Sự thật là liều thuốc tốt cho xã hội hôm nay, một xã hội còn nhiều giả dối : hàng giả, giấy tờ giả, tiền giả, thuốc giả, ngay cả trên thân xàc cũng có nhiều thứ giả,…Người ta sợ nghe sự thật thì phải thay đổi nếp suy nghĩ, cách làm việc, cách sống…Nhưng càng ít nghe sự thật, con người càng đánh mất chính mình và đến lúc cũng tự lừa dối cả chính mình.

Hãy Biết hành động theo sự thật dù “sống thiệt thì thiệt thân”. Từ suy nghĩ không thật, nên hành động không thật. Vì thế, mới có những vụ lừa đảo, “giật hụi”, “chiếm dụng tài sản”, “chiếm dụng của công”. Sống gian dối trở thành một thói quen được mọi người dễ dàng chấp nhận hơn là sống chân thật. Muốn hành động đúng, hãy Biết suy nghĩ đúng, nói và nghe đúng. Có thế, chúng ta mới luôn đi đúng đường.

Khi dân chúng định xô Chúa Giêsu từ trên triền núi xuống vực thẳm thì Chúa đã “rẽ qua giữa họ mà đi”. Chúa muốn mở ra một ngã rẽ mới, mở ra con đường chân lý, con đường thập giá của người ngôn sứ. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy.

Đi theo con đường sự thật và sống tinh thần một ngôn sứ,  chúng ta phải chấp nhận hy sinh từ Bỏ chính mình, chấp nhận mất mát, thiệt thòi, và chấp nhận cả sự thật này : con đường thập giá luôn luôn dẫn đến đỉnh đồi Calvê.

Người ta kể lại rằng : vào năm 1889, khi ông kỹ sư người Pháp là Gustave Eiffel, xây dựng ngọn tháp nổi tiếng mang tên ông, tháp Eiffel, thì có nhiều người đã chê Bai, phê Bình chỉ trích về kiểu dáng và chất liệu của ngọn tháp như một đống sắt giữa thủ đô Paris tráng lệ. Trong số những người không thích tháp Eiffel có nhà văn Guy de  Maupassant.

Nhưng người ta cũng rất ngạc nhiên khi thấy ngày nào ông ta cũng lên tháp ngồi ngắm cảnh. Người ta hỏi ông : “Tại sao ông không thích tháp Eiffel mà ngày nào ông cũng lên tháp ngồi ?”. Ông ta đã trả lời : “Đi đâu tôi cũng phải nhìn cái tháp này. Vì thế, cách tốt nhất để không phải nhìn thấy cái tháp là vào ngồi trong chính cái tháp đó – Tháp Eiffel là nơi tôi không thấy tháp Eiffel”.

Thiên Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Ngài là Chân Lý cao cả nhất, không ai có thể chối cãi được. Mặc dù người ta từ khước Ngài, nhưng Ngài vẫn còn đó, mãi mãi còn đó. Ngay cả khi người ta chối Bỏ và chạy trốn Ngài, người ta vẫn ở trong vòng tay yêu thương của Ngài.

home Mục lục Lưu trữ