Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 35
Tổng truy cập: 1379411
KHÔNG ĐƯỢC TÔN TRỌNG NƠI QUÊ HƯƠNG
KHÔNG ĐƯỢC TÔN TRỌNG NƠI QUÊ HƯƠNG
Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng. Ngài đang trở về thành phố quê hương, chưa có ai chỉ trích Ngài nghiêm khắc cho bằng những người từng quen biết Ngài từ thời thơ ấu. Ngài không hề có ý trở về quê quán cách riêng tư, chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một Rabbi. Các Rabbi vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ của họ. Với tư cách Rabbi, Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.
Ngài vào hội đường và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp ngã vì Người”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ một bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu, lại nói năng và hành động như vậy. Sự quá quen thân thường làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những gì Ngài nói, vì hai lý do:
1/ Họ bảo nhau “Ông này không phải bác thợ sao?”.
Từ dùng chỉ thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một thợ làm đồ gỗ, nhưng không chỉ đơn giản là một thợ làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa là một nghệ nhân, một người làm nghề thủ công tinh xảo. Homer đề cập đến tekton như người đóng tàu, cất nhà, xây đền đài. Đời xưa và cả ngày nay nữa, tại nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra một người thợ thủ công có thể làm bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, người ấy có thể xây tường dặm vá mái nhà, sửa khung cửa. Đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hoặc chỉ tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế, sở dĩ người làng Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ. Ngài là một người bình thường, một thường dân, một con người chất phác.
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân là Will Crooks. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo, ký ức đầu tiên ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa ăn sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào Lao động thị xã Luân Đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch tại Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “Người ta bầu Will Crooks làm chủ tịch á, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Will Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân tầm thường, với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa khi Con Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi một miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng đối với nhan cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh gía một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
2/ Họ nói “Không phải đây là con bà Maria hay sao?
Không phải chúng ta đều biết rõ anh em ông ta sao?” Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con bà Maria cho chúng ta biết có lẽ Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong nhiều điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài không lìa bỏ Nagiarét trước năm ba mươi tuổi (Lc 3,23). Tại sao Ngài lại trì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nagiarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi cứu rỗi? Có phải vì Giuse đã chết sớm và Chúa Giêsu phải đảm nhiệm việc nuôi dưỡng mẹ? Ngài vốn trung tín ngay trong những việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng Thiên Chúa giao cho Ngài làm rất nhiều việc.
Nhưng dân chúng Nagiarét lại khinh dể Ngài vì họ biết rõ gia đình Ngài. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông lại chẳng biết gì về thi ca. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bìa sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm một cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhiều khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng, vì đại của người ấy.
Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nagiarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.
1/ Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.
Margot Asquith kể lại cái chết của Neville Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của Neville đã khiến ông ta rất đau lòng. Margot đến gặp và nói với bác sĩ của ông ta là Lord Horder “Ông chẳng có khả năng của một bác sĩ, Chamberlain chỉ lớn hơn Churchill vài tuổi và phải nói là ông ta khỏe mạnh lắm, ông có quý mến ông ấy không?”. Lord Horder đáp “Tôi rất quý mến ông ta, tôi thích tất cả những con người khó thương ấy, tôi đã gặp nhiều người như thế rồi. Ông ta bị chứng rụt rè. Ông ta không muốn sống, khi một người nào đã nói thế, chẳng có bác sĩ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.
2/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được, các nhà thờ của chúng ta khác hẳn nếu tín hữu nhớ rằng chính họ phải giảng hơn phân nửa bài giảng.
Trong một bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể cháy bùng lên. Nhưng trong bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hoặc với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dù được đầy tràn Thánh Thần, vẫn cứ từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.
3/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự hòa giải.
Nếu người ta chỉ họp lại để từ chối thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để cảm thông nhau thì họ vẫn hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để không thấy gì khác hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ sẽ chẳng còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình yêu của Chúa Giêsu để tìm cách thương yêu nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hiệp nhất trong Chúa.
Chúng ta vốn được giao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa. Chúng ta có thể mở rộng cửa cho Ngài, hoặc đóng nó lại truớc mặt Ngài.
67. Ngôn sứ ở giữa quê hương mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Đề tài bất trung, thất tín, phản nghịch không phải là đề tài mới mẻ trong Cựu Ước, trong Thánh Kinh. Nhưng đây là một câu chuyện thường gặp trong Kinh Thánh. " Người nhà đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài" không là chuyện bất thường trong Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài đọc I của ngôn sứ Ézékien hôm nay đã có những ngôn từ nói về con cái Israen như:" dân nổi loạn, phản nghịch, lỗi giao ước, bọn phản loạn vv...". Con cái Israen phải trải qua thử thách, đen tối vì họ bất tín, thất trung và phản bội, nhưng họ vẫn luôn hy vọng: Chúa là Đấng yêu thương và trung tín đến muôn muôn đời. Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái Israen vị ngôn sứ này. Tin Mừng Mc 6, 1-6 chỉ ra rằng Chúa Giêsu không những là vị ngôn sứ như các vị ngôn sứ khác mà là chính Con Thiên Chúa làm người cũng đã phải đương đầu với những kẻ đồng quê hương với Ngài.
Chúa Giêsu khi trở về Nagiarét với thánh cả Giuse và Mẹ Maria, Ngài đã sống một cuộc sống rất bình thường như mọi người dân làng lúc đó. Chúa Giêsu đã lớn lên, đã hưởng thụ một nền giáo dục trong gia đình một cách tuyệt hảo nhất: Ngài đã từng uống từng lời Mẹ Maria dậy bảo,Ngài đã tuân theo sự chỉ bảo của thánh cả Giuse.Cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ kéo dài có 33 năm: 30 năm, Ngài đã sống đời ẩn dật nơi gia đình, nơi quê hương Nagiarét. Hẳn cuộc sống của Chúa Giêsu bình dị, bình thường và hết sức người trong những năm tháng ẩn dật làm nghề thợ mộc. Cái bình thường không làm Chúa Giêsu uổng phí quãng đời trần thế, mà đây là giai đoạn giúp Chúa Giêsu sống kiếp người cách trọn vẹn nhất của Ngài. Ngài sống đơn giản, bình dị đến nỗi dân làng Nagiarét không nhận ra Ngài:" Ông ấy không phải bác thợ mộc, con bà Maria sao? ". Sự đơn giản, bình dị khiến gây cho nhiều người nên cớ vấp phạm vì Ngài. Tới tuổi trưởng thành khi đến hội đường, mọi người Do Thái đều có quyền phát biểu ý kiến khi tham gia phụng vụ. Chúa Giêsu đã nại vào quyền này khi Ngài tới hội đường và rao giảng Tin Mừng. Lời loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu hẳn có nhiều điều mới lạ, khác với những điều dân làng thường nghe trong hội đường trong các giờ hội họp phụng vụ. Khác đến độ những người trong hội đường ngày hôm đó đã nhận ra và hết sức ngạc nhiên, bỡ ngỡ, khâm phục. Những người đồng hương với Chúa Giêsu hẳn đã chứng kiến những phép lạ, những lời nói đáng giá của Chúa Giêsu và hẳn họ cũng đã một cách nào đó được lay động để khám phá ra những gì mới mẻ nơi Chúa Giêsu. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những tia sáng lóe lên, rồi vụt tắt vì những người đồng hương với Chúa Giêsu lại trở về với những lý luận tầm thường, những nhận xét theo ý họ, nếu không nói được là những lý luận cùn, lý luận thiển cận, hẹp hòi, ích kỷ. Họ đã không nhận ra cái thực tế đáng lẽ họ đã được hưởng. Họ đã đóng cửa lòng lại, đóng con tim lại để tự tách mình ra khỏi nước trời đang đến với họ. Chúa Giêsu thấy lòng chai dạ đá của họ, nên Ngài đã chẳng làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng nước trời ở giữa họ và Ngài đã bỏ họ, đi giảng dậy, rao giảng ở những làng, những nơi khác. Phản ứng của những người đồng hương của Chúa Giêsu về những lời rao giảng của Ngài trong hội đường và những năm tháng sống ẩn dật tại gia đình ở làng quê Nagiarét xác quyết cho nhân loại hay Chúa đề cao đời sống gia đình. Chúa không sống như một siêu nhân, như một người không thực tế. Cuộc sống bình dị của Chúa như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình đời thường mang lại cho cuộc sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị cao sâu, tuyệt vời. Đời sống của Chúa mời gọi mọi người nhìn vào đời sống của mình.
Phản ứng của những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu cũng có thể là những cám dỗ, những thử thách của nhân loại hôm nay,muôn thuở. Người Kitô hữu vẫn có thể tự mãn với danh hiệu Kitô của mình. Người Kitô hữu có thể tự hào, tự mãn vì mình đã học giáo lý, đã đọc Tin Mừng, đã đi lễ, đã đọc kinh, nhưng đời sống lại không phù hợp, không đi đúng với Tin Mừng. Lời Chúa rao giảng luôn đi đôi với việc làm. Chúa Giêsu đã không nói suông, nói lý thuyết, nói ngoài môi miệng, nhưng Ngài đã luôn nói và làm. Chúa nói:" Hãy yêu thương nhau", Ngài đã thực hiện điều đómột cách tận căn. Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, Ngài đã yêu, đã hy sinh chính cả mạng sống mình vì người mình yêu: "Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì người mình yêu "( Ga 15, 13 ). Người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe và đem thực hành lời Chúa trong đời sống. Những biến cố, những sự việc xẩy ra trong cuộc đời, trong xã hội, trên thế giới được Chúa mời gọi con người hãy biết nhìn chúng với ánh sáng Tin Mừng của Ngài. Giáo Hội và con người được Chúa trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô. Nên, rao giảng không chỉ đóng khung trong những kiến thức có sẵn mà còn phải lắng nghe, đào sâu và loan báo chính Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng con, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người.
68. Tin mới thấy được
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Chúa nhật thứ mười bốn năm B xoay quanh một vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp: Sứ vụ của ngôn sứ không được ưu đãi nơi quê hương của mình. Vấn nạn được đặt ra nhân việc Chúa Giêsu giảng dậy tại Hội Đường nơi quê hương Nagiarét:" Ngài không phải là con bác thợ mộc Giuse, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy:" Không một ngôn sứ nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình" ( Mc 6, 4 ).
Tin Mừng của thánh Maccô 6, 1-6 dậy cho dân Chúa bài học đích đáng. Người biết Chúa thường thờ ơ, lãnh đạm:" Gần chùa gọi bụt bằng anh". Đó là thái độ của những người không có lòng chân thật, thường bám víu vào những gì mình có và một khi cảm thấy đầy đủ, hoặc sự thật đầy đủ hoặc chỉ có trong ảo tưởng thì họ đâm ra coi thường tất cả, mặc dầu bản chất họ không được như vậy. Điều ấy, hợp với đoạn Tin Mừng sáng nay, khi mọi người được sống gần Chúa, được nghe những lời khôn ngoan giảng dậy của Ngài, người ta lại đâm ra nghi ngờ về sự chân thật của Ngài và từ thái độ hồ nghi đó, con người đặt vấn đề về Ngài, xem Ngài như một người thường thức, một con người xuất thân từ cha mẹ cũng không có thế giá gì. Chúa Giêsu nói rất rõ về thái độ cứng tin của con người, những người đã được sống gần gũi Chúa, được tiếp xúc với ơn cứu độ của Chúa và được nghe những lời chân thật, quí báu của Ngài. Tại sao họ lại đặt vấn nạn về Ngài giữa lúc họ được nghe lời cứu rỗi của Ngài. Ở đây chúng ta có thể đặt hai vấn nạn: một là con người cố bịt tai, nhắm mắt không chịu nhìn Đấng Cứu Thế. Hai là con người cứng lòng không chịu mở rộng tấm lòng để nhận ơn cứu rỗi của Chúa Kitô. Do đó, Đức Giêsu đã phải thốt lên:" Ngôn sứ mà có bị khinh thì chỉ có ở nơi quê quán, nơi bà con, nơi nhà mình mà thôi" ( Mc 6, 4 ). Ngài có thể làm được nhiều điều tốt đẹp để làm vinh danh Cha Ngài nơi quê hương của Ngài, nhưng Ngài đã không thể làm được gì, ngoài việc đặt tay chữa lành vài người đau ốm"( Mc 6, 5 ). Đoạn Tin Mừng này làm sáng tỏ vấn đề ngôn sứ Êdêkiên nói tới ở đoạn 2, 2-5. Ngôn sứ lãnh lời của Thiên Chúa truyền đạt cho dân, nhưng dân phản loạn không chịu nhìn nhận vị sứ giả của Thiên Chúa, không nhìn nhận uy quyền của Đấng được sai đi. Thái độ của dân trong đoạn này cũng là thái độ đóng kín, bịt mắt không chịu mở lòng, mở đôi mắt để thấy rõ vị sứ giả của Thiên Chúa sống giữa họ và phục vụ Tin Mừng cho họ. Maccô 6, 1-6 và ngôn sứ Êdêkiên 2, 2-5 dẫn ta tới sự kiện:" Tin và Phó thác". Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu Corintô 12, 7-10 đã thú nhận sự yếu hèn của thân xác và xin Chúa cất khỏi sự cám dỗ của xác thịt Ngài, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận sự yếu hèn của Ngài như thử thách của lòng tin:" Ơn Ta là đủ cho Ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối"( 2Co 12, 10 ). Các bài đọc đưa ta tới một kết luận chung: Phó thác và tin tưởng cậy trông vào Chúa, chắc chắn sẽ được Ngài gia ân giáng phúc và cho con người đứng vững trong lịch sử cứu độ của mình.
Đức Giêsu đã dậy cho dân Chúa, cho mọi người một bài học thích đáng: Không được đóng kín lòng, nhưng phải mở tung tâm hồn để lãnh nhận ơn huệ của Thiên Chúa. Con người sống ở đâu, ở hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, lòng tin vẫn là nguồn sống cho họ. Thiếu lòng tin con người sẽ khô cằn và chết. Lòng tin sẽ giúp con người can đảm để sống, giúp họ vươn tiến và bước đi trong bình an. Ích kỷ, tị hiềm, ghen tương sẽ không xây đắp được gì. Chỉ có lòng tin, sự quảng đại, bao dung mới xây nên được sự bình an. Sống trong một thế giới vắng bóng Thiên chúa, xa dần sự thật và ánh sáng. Lòng tin sẽ là đèn pha dọi chiếu để con người nhìn ra thực trạng sống và nhìn ra cùng đích để bước tới. Thực trạng và cùng đích là Chúa Kitô. Đức Kitô là Tình yêu. Tình yêu là nguồn sống của con người. Nơi nào có sự thật, chân lý và tình người, nơi đó có Thiên Chúa ngự trị. Nơi đâu tình yêu nhường chỗ cho hận thù, ghen tương và đố kỵ, nơi đó vắng bóng Thiên Chúa. Tình thương thì xây dựng. Hận thù thì hủy diệt. Tình thương sẽ giúp con người ngồi gần nhau hơn để nói lên sự tin tưởng, tín thác và nâng đỡ nhau. Đức Kitô không đòi hỏi con người điều gì cả ngoài tình thương họ phải đáp trả. Sở dĩ con người không nhận ra Ngài vì họ thiếu tình thương, thiếu lòng tin và phó thác. Đức Kitô vẫn ở đó, vẫn ở bên ta nhưng có người đã nhận ra Ngài, có người chưa nhận ra Ngài và có người không muốn nhìn nhận Ngài như những người ở làng quê Nagiarét xưa.
Woodbridge đã viết một câu thật chí lý:" Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người ".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng biết nhìn thấy Chúa ở khắp nơi.
69. Xua đuổi và khước từ
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
Các bài đọc hôm nay giới thiệu ba vị tiên tri cùng chung một số phận. Đó là Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu. Ba vị đều bị xua đuổi, khước từ, tại chính quê hương mình. Lý do đơn giản chỉ vì sứ điệp mà các vị rao giảng cho họ. Ezekiel sống giữa những người Do thái lưu đầy tại Babylon. Thánh Phaolô bênh vực chức vị và sứ vụ của mình chống lại những kẻ tự xưng là chính thống, nghi ngờ tính hợp pháp của Ngài. Ngài chịu "khổ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì danh Đức Kytô". Chúa Giêsu thì đang ở làng Nazarét cùng với các môn đệ. Cả ba đều gặp sự chống đối quyết liệt của các thính gỉa ương ngạnh trong chính dân tộc mình. Nhưng các vị lại cảm nhận rõ sứ điệp mình rao giảng là từ Thiên Chúa . Chẳng hạn tiên tri Ezekiel nói: "Thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Đức Chúa phán với tôi và làm cho chân tôi đứng vững, tôi đã nghe tiếng Người nói với tôi…." Hiện thời ông đang sống giữa một dân tộc bại trận, bị phát lưu sang đất lạ. Nhưng Thiên Chúa có một sứ điệp gởi đến dân Ngài và Ezekiel phải truyền đạt. Chính Thiên Chúa đã thúc đẩy ông chu toàn nhiệm vụ "Ngài làm cho chân tôi đứng vững".
Ở phép rửa bên sông Giođan, Chúa Giêsu cũng lãnh nhận một công tác tương tự: "Vừa lên khỏi nước Người liền thấy các tầng trời xé ra và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình" (Mc l,l0) Cả hai Chúa Giêsu và tiên tri Ezekiel, đều phải rao giảng sự thật cho dân tộc mình, cảnh cáo về lối sống và những sai lầm họ đã lựa chọn. Sứ điệp đó khó nghe và dễ mất lòng, cho nên gặp nhiều chống đối. Các sứ giả tiên tri khác đều ở trong những hoàn cảnh tương tự, bị bách hại và bị giết chết. Riêng Chúa Giêsu còn mạnh mẽ tố cáo các nhân vật đồng thời xây dựng đền đài lộng lẫy, tưởng niệm các tiên tri mà tổ tiên họ đã giết hại.
Trong hầu hết các trường hợp Kinh thánh, sứ giả được Thiên Chúa lựa chọn đều thuộc tầng lớp dân dã, rao giảng cho quần chúng bình dân. Thí dụ như bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu rao giảng cho dân làng Ngài. Họ biết rõ cội nguồn của Ngài. Ngài đã từng sống giữa họ, thuộc về giai cấp thấp hèn trong làng, họ chẳng lạ chi nhà cửa, cha mẹ, họ hàng của Ngài. Bề ngoài Ngài chẳng có dáng dấp gì đặc biệt, tầm thường như mọi người, làm nghề thợ mộc, láng giềng với họ. Cho nên họ rất đỗi ngạc nhiên. Làm sao thượng đế tối cao và thánh thiện lại có thể truyền đạt ý muốn qua một người tầm thường như thế? Bây giờ chúng ta có thể đặt câu hỏi tương tự về những biến cố, sự vật, sứ giả đời thường hiện nay! Có thể là Thiên Chúa sử dụng chúng ta để mưu ích cho giáo dân trong giáo xứ? Có thể là Thiên Chúa nói với chúng ta qua thân nhân, bà con chòm xóm? Kinh nghiệm cho hay khi lớn tuổi hoặc về già, nhiều người vẫn còn nhớ lại thời niên thiếu của mình, nhất là những lời dạy bảo hoặc gương lành của ông bà cha mẹ và lấy đó làm kim chỉ nam hướng dẫn mình suy nghĩ và hành động: "Mẹ tôi hồi ấy thường nói với tôi như thế này, thế nọ" … "Cha tôi hiền và tốt bụng với láng giềng. Người yêu tôi lắm, khi tôi còn nhỏ…."
Đúng là cũng chính Đấng Thiên Chúa , xưa kia đã phán bảo dân Do thái lưu đầy qua tiên tri Ezekiel, thì nay cũng đang nói với chúng ta trong cuộc tha hương lữ thứ riêng mỗi người, qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Vậy thì chúng ta đang bị đầy ải ở những nơi đâu? Lưu vong như thế nào? Thưa, đó là những lúc chúng ta cảm thấy mình không còn ở "quê hương chân thật" nữa. Bất hạnh vì nghĩ tai họa xẩy đến, những biến cố không có lợi, như bệnh tật yếu đuối, khổ đau. Chúng ta nghiệm ra khi mình không được yên ổn, trái lại đang bị đầy đọa trong trí khôn, thân xác. Những tương quan tồi tệ với người chung quanh, xa lạ về văn hóa ngôn ngữ, không đồng bộ với hàng xóm láng giềng trong các sinh hoạt thường nhật, khát khao mảnh đất quê hương như Thiên Chúa đã hứa, chán ngấy những tin tức chiến tranh, tiêu diệt chủng tộc, nghèo đói, bất công, áp bức, chia rẽ, kỳ thị… Những cuộc tha hương hay vong thân này và còn nhiều nữa khiến chúng ta bồn chồn lo lắng, khi nghe các bài đọc. Đúng thế, chúng ta đang sống kiếp lưu đầy như dân Do thái xưa, chúng ta chưa phải đã định cư trên đất hứa, chưa cảm thấy như ở quê hương chân thật. Tuy nhiên, một ngày nào đó, chúng ta sẽ được ở đất hứa với Thiên Chúa và mọi sự sẽ tốt đẹp. Ngay lúc này chúng ta còn phải vật lộn, trong những cố gắng nho nhỏ, để chống lại điều dữ, phát huy điều lành, phục hồi sự ngay chính cho cá nhân và hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta biết rằng công việc như thế chẳng hề có tận cùng trên chốn lưu đầy này.
Tiên tri Ezekiel và Chúa Giêsu cũng đã thi hành sứ vụ như vậy, các Ngài là thành phần của quần chúng mà các Ngài phải rao giảng, để sửa lại những đường lối, não trạng sai lầm, những suy nghĩ lệch lạc. Các Ngài thúc dục họ thực hiện những đổi thay cần thiết trong cuộc sống riêng tư và công cộng. Các Ngài đã gặp nhiều chống đối từ phía lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Mặt khác, các Ngài cũng được sai đến để yên ủi khuyến khích các nạn nhân. Những người bị thiệt thòi trong cán cân công lý. Họ được nghe các tiên tri đoan hứa: Một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh mọi sự. Rứt khoát là như vậy. Thiên hạ sẽ sống trong an lạc và công lý. Đối với những ai bị áp bức, các Ngài tuyên bố Thiên Chúa đã lưu ý đến tình trạng khốn khổ của họ. Ngài sẽ ra tay báo oán ác nhân và sửa chữa những nỗi bất công. Đối với những linh hồn can đảm, dám xả thân vì chính nghĩa, đòi hỏi công bằng xã hội, các ngôn sứ đem lời khuyến khích của Thượng đế, để họ tiến xa hơn trong công việc lành thánh.
Người làng của Chúa Giêsu không phủ nhận các việc làm lạ lùng, sự khôn ngoan thông tuệ của Ngài. Nhưng họ không có khả năng nhìn thâu qua các công việc cụ thể, cảm giác được. Họ không chấp nhận sứ điệp của Ngài bởi chẳng nhìn thấy nó đến từ Thiên Chúa. Làm thế nào, một con người bình thường, hàng xóm thường ngày của họ, lại có thể rao giảng những điều cao siêu nhân danh Thượng đế? Hơn nữa, ông lại có thể giải thoát khỏi tội lỗi? Và khai mở một tương lai hoàn toàn mới? Họ có thể ngạc nhiên về những gì mình xem và nghe thấy. Nhưng vâng theo và thay đổi nếp sống thì không. Thật đáng tiếc! Nếu như họ tin vào sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, chắc chắn họ đã được Lời Chúa hướng dẫn và khích lệ. Nếu họ hiểu được các phép lạ của Chúa Giêsu, họ đã có thể cảm nghiệm cánh tay quyền phép của Thiên Chúa . Sau khi Chúa Giêsu chịu chết họ đã hãnh diện treo trên cổng làng mình tấm bảng ghi nhớ: "Đức Giêsu Kytô đã sinh ra và lớn lên tại đây" hoặc có lẽ họ đã lấy tên Ngài đặt cho một quảng trường hoặc hội quán thể thao nào đó. Nhưng bất hạnh, họ đã để lỡ cơ hội, không nhận ra bàn tay Thiên Chúa với tới họ qua vị tiên tri qúi danh là Giêsu. Đúng như lời các ngôn sứ xưa: "Không một tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình".
Như vậy chúng ta có thể lượng định dân làng Nazarét đồng hương, đồng thời với Chúa Giêsu đã lây nhiễm thái độ của những kẻ yếm thế, thất vọng, không còn tin tưởng, cậy trông Thiên Chúa hành động trong cuộc đời mình. Cản trở đường lối Thiên Chúa trong các biến cố sinh hoạt thường ngày, do những tập tục tự mình tạo nên. Họ không thấy Chúa Giêsu là Đấng thiên sai cha ông họ mong đợi.
Nếu như chúng ta cũng theo não trạng Do thái, chờ đợi một Thiên Chúa oai hùng, phán với dân Ngài qua tiếng sấm, tiếng sét, ánh chớp chói lòa, thì chúng ta phải đợi chờ lâu lắm, chẳng biết đến bao giờ. Lại nữa, nếu chúng ta cũng theo não trạng Do thái chờ đợi một ai đó vạch ra con đường tương lai chắc chắn, phân biệt rõ ràng điều dữ phải tránh, điều lành phải làm, để rồi vững bụng biết mình đang đi trên đường chính nẻo ngay, thì chúng ta có lẽ phải đợi chờ đến ngàn năm, vạn kiếp thiên thu.
Phải, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta làm tiên tri và chúng ta cũng chỉ là những con người bình thường. Nếu như Ngài sai chúng ta làm ngôn sứ trong chính quê hương mình, thì Ngài sẽ kiện cường chúng ta, công nhận, dậy bảo và nuôi dưỡng chúng ta. Đúng thật, hôm nay Ngài thực hiện điều đó nơi mỗi người chúng ta. Công việc phải làm là lắng nghe Lời Ngài trong buổi phụng vụ này. Bởi lẽ trong các bài đọc chúng ta sẽ được nghe Chúa Thánh thần nhắc nhớ chúng ta đang sống kiếp lưu đầy. Chính Ngài làm cho "đôi chân vững vàng" và sai gởi chúng ta đi loan báo cho anh em đồng bào, đúng như khi xưa Thần khí đã sai phái Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu rao giảng cho dân tộc Do thái. Chúng ta cũng cần suy gẫm lại bánh rượu, trên bàn thờ hôm nay, chúng chỉ là những hoa mầu dân dã, nhưng lại là của ăn thức uống cần thiết cho các sứ giả thời nay. Vì sao? Có nhiều lý do, và một trong các lý do đó là ban sức mạnh cho mỗi người trong những cuộc lữ thứ cá nhân: đau khổ bệnh tật, nghèo đói hoạn nạn… Sống trong tình huống lưu đầy với bao lo lắng trần gian, chúng ta không có nhiều cơ hội hồi tưởng: Trái đất này không phải là quê hương vĩnh cửu. Quê hương vĩnh viễn phải là nước trời. Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay chỉ là bữa ăn của những kẻ tha hương. Nó giúp chúng ta mạnh sức và tập trung tư tưởng, ý chí vào đường lối Thiên Chúa. Nó nuôi dưỡng hy vọng vào quê hương chân thật, cho hưởng trước những ngọt ngào vui thỏa của quê hương đó và mạnh dạn làm chứng cho thế gian biết: Có một nơi gọi là thiên quốc, nhân loại phải nỗ lực tiến về, không loại trừ một ai! Xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, tránh được thái độ vô tín của dân làng Nagiazet, mau mắn tin vào Chúa Giêsu và xứ vụ của Ngài. Ngõ hầu Ngài có thể thực hiện nhiều dấu lạ giữa chúng ta, nhờ đó cộng đoàn giáo xứ nhanh chóng tiến triển trong đức tin. Amen.
Lắng nghe Lời Chúa để trở nên người phục vụ nhỏ bé của anh em.
70. Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP
LẮNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ TRỞ NÊN NGƯỜI PHỤC VỤ NHỎ BÉ CỦA ANH EM
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất về ơn gọi làm ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta muốn nói ngay "tiếp theo", và rồi qua các bài sách khác hy vọng sẽ nghe được nghe những điều có ý nghĩa hơn cho đời sống của chúng ta. Nghĩ kỹ lại chúng ta không được thị kiến nào cả. Nay nghe tiếng nói của Thiên Chúa gọi chúng ta làm ngôn sứ. Ngay cả khi chúng ta cảm thấy được gọi nói với một người nào, hay hành động về một vấn đề gì, lời gọi ông Ê-dê-ki-en có thể làm chúng ta dừng lại. Thiên Chúa sai ông Ê-dê-ki-en đến với một dân tộc "phiến loạn lòng trơ tráo, mặt chai đá". Chừng ấy cũng đủ làm một phàm nhân trả lời "thôi quên chuyện đó đi".
Nhưng chúng ta không nên vội tiến tới. Thật ra ông Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa giao cho một trách nhiệm khó khăn, và ông ta là một phàm nhân như tất cả chúng ta.Ông ta sợ hải, và ai lại không sợ chứ? Chổ này là đoạn thứ hai phần đầu của sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Sách bắt đầu với: trời mở ra với thị kiến thần linh, có gió bão thổi đến, có đám mây lớn và lửa rập rờn, hào quang vang cả xung quanh, và từ giữa như thể kim ngân long lanh từ lửa. Và từ giữa có gì giống tựa bốn sinh vật giống tựa người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Các sinh vật đi trên bánh xe dưới đát. Có gì như kim ngân long lanh coi dường như lửa làm vòng xung quanh. Đó là hình dáng của cái gì giống tựa vinh quang Đức Chúa (Ed 1: 28). Rồi thần linh Thiên Chúa vào trong ông ta để đỡ ông ta "Đứng dậy".
Thiên Chúa có lời phán cho dân chúng, và chọn con người như chúng ta nói lên lời đó. Các ngôn sứ không tự do nghĩ trách nhiệm của họ là gì, nhưng họ là những người Thiên Chúa sai đi. Và đó la tất cả điều khác biệt. Thiên Chúa chọn người; Thiên Chúa bảo chúng ta "đứng dậy đi"; Thiên Chúa cho sứ mạng phải nói gì; Thiên Chúa chọn sứ mạng sẽ như thế nào v.v… Trong tay Thiên Chúa là tất cả: sứ mạng, ngôn sứ, và dân chúng.
Thiên Chúa chọn ông Ê-dê-ki-en nói lời an ủi cho dân Israel đang bị tù đày và thất bại. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho họ phấn khởi lên (Ed 36). Thiên Chúa sẽ làm cho núi non, gò mỗng, lòng suối, xương khô trong thung lũng sẽ sống lại và trở nên một dân tộc mới (Ed:37). Đây là bắt đâu trách nhiệm của Ê-dê-ki-en, và ông ta cảm thấy không đủ sức. Ông ta chưa được có thị kiến về việc Thiễn Chúa sẽ làm gì cho dân chúng. Thiên Chúa làm sao thức tỉnh dân chúng trong tù đày và đem họ trở về quê quán của họ? Chỉ có Thiên Chúa mới biết, và mới làm được. Và đó mới là điểm chính: Thiên Chúa nắm giử tất cả. Nhưng, Thiên Chúa cần người thường dân muốn đáp lại lời gọi của Ngài - và đây là bổn phận của chúng ta.
Thiên Chúa có thể đem dân chúng ra khỏi thất bại. Chúng ta có biết một cộng đoàn nào, hay một nhóm người nào trong xã hội đã bị thất bại, chán nãn không? Chúng ta có được gởi đến với họ để nói lời an ủi phấn khởi họ, và hành động theo lời nói của chúng ta hay không? Có thể chúng ta, những Ê-dê-ki-en, không được gởi đến với một cộng đoàn nhưng đến với từng cá nhân. Hãy nhìn xung quanh chúng ta, trong gia đình, nơi sở làm, bạn bè, hàng xóm, hay người nào trong viện dưỡng lão. Chúng ta sẽ nói gì với họ? Chúng ta sẽ làm gì cho họ? Đến bây giờ chúng ta chưa biết được. Nhủng, qua phép rửa tội, chúng ta tất cả được gọi làm ngôn sứ để nói lời an ủi, và thử thách của Thiên Chúa cho những ai cần đến.
Chúng ta sẽ làm gì? Việc đầu tiên bài sách nói với chúng ta là: "như Thiên Chúa đã bảo tôi..." Việc đầu tiên làm ngôn sứ là nghe lời Thiên Chúa. Chúng ta cũng như ông Ê-dê-ki-en sẽ được Thiên Chúa mời gọi, "Và Chúa Thánh Thần ngự trong tôi và đặt trên đôi chân của tôi." đó là Thiên Chúa đã chọn chúng tôi và được giao một sứ vụ cho chúng tôi, như một người lắng nghe Lời Chúa phán.
Bài sách Ê-dê-ki-en đưa đến bài phúc âm. Cũng như các ngôn sứ khác, ông Ê-dê-ki-en cho thấy những yếu điểm của người phàm. Hình dáng và lịch sử của người đó có thể làm mất tín nhiệm như chúng ta thấy trong kinh nghiệm ông Ê-dê-ki-en là Thiên Chúa có thể làm nhiều điều vinh quang qua người phàm.
Trong xóm làng của Chúa Giêsu, Ngài chỉ là một "người phàm". Chúa Giêsu đã sinh ra như tẩt cả chúng ta, qua một hài nhi yếu ớt và cần phải được nuôi dưỡng. Lúc Chúa Giêsu là hài nhi, Ngài cần phải có người săn sóc. Phúc âm không phải là thần thoại Hy lạp nói về các chúa của họ sinh ra khôn lớn và ra lệnh ngay. Không, Chúa Giêsu sinh ra như tất cả người phàm, yếu ớt và cần phải có người nuôi dưỡng săn sóc.
Trước đoạn phúc âm đọc ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ như; khi Ngài chịu phép rửa có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha rất hài lòng về con". Sau khi Chúa Giêsu bị quỷ dữ cám dỗ trong hoang địa, Ngài gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài chửa người bị quỷ ám trong hội đường, và ngủỏ#i bại liệt ỏ# Capharnaum; Ngài trừ quỷ ám một người sống trong nghĩa địa ở Ghê ra sa; Ngài cứu con gái ông hội trưởng hội đường đã chết được sống lại; Ngài chửa người phụ nữ bị băng huyết v.v... Chúng ta vẫn còn trong phần đầu phúc âm thánh Mác cô, nhưng Chúa Giê su đã làm nhiều việc lạ lùng, chúng ta đã nghe Ngài nói là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Tất cả những việc làm lớn lao đó ngừng ngay khi Ngài trở về quê quán Ngài. Các bạn bè và bà con trong gia đình có đó. Nhưng họ không chấp nhận Ngài. Ngài chỉ là một người thường như họ và như chúng ta. Có thể bà con trong họ hàng muốn có một người có nhiều sức mạnh hơn để cứu thoát họ khỏi ách nô lệ đàn áp của đế quốc La mã, và khỏi cảnh nghèo nàn. Trước kia Chúa Giêsu đã giúp những người cần được giúp đở, nhưng vì sao Ngài lại không tỏ sức mạnh hơn để giúp bà con họ hàng? Thật sự họ chỉ cần thế thôi
Người dân muốn những dấu hiệu mạnh mẽ của Thiên Chúa đến họ với một cánh tay thần lực để giải cứu họ. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với họ về dấu chỉ Triều Đại Thiên Chúa khởi sự nhỏ bé như hạt cải "loại hạt giống nhỏ nhất trong các thứ hạt", thì làm sao Thiên Chúa tỏ sức mạnh quyền uy trong hạt cải được? Và vì thế họ thất vọng nên chống đối Ngài.
Chúng ta cũng có thể có thái độ đó nếu chúng ta mong đợi Thiên Chúa tỏ mình trong các việc làm hùng hậu rềnh rang. Trái lại, Chúa Giêsu đã bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua quyền uy khác: quyền uy để giúp người khác chứ không phải giúp chúng ta. Một quyền uy dịu dàng, không ép buộc người khác phải làm theo ý mình một quyền uy cảm thông và nhẹ nhàng khi người khác mong đợi sức mạnh.
Đáng lý dùng quyền uy để đánh tan kẻ thù của Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu chấp nhận đau khổ và sự chết. Ngài phó thác mọi sự trong bàn tay Thiên Chúa, và tha thứ cho kẻ thù, ban cho họ một đời sống mới, đời sống mà thế gian không nhận ra vì là đời sống bình thường của những người bình thường như chúng ta. Chúng ta chấp nhận sự yếu đuối và sự thiếu sót của chúng ta, Nhưng chúng ta chấp nhận thần linh Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa nói để nâng đở chúng ta và giúp chúng ta "đứng dậy".
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam