Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1378886

KHUÔN MẶT NGÀI BIẾN ĐỔI

Khuôn mặt Ngài biến đổi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.

Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.

Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: “Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi”.

Gần đèn thì sáng.

Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả: “y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng”.

Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.

Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.

Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.

Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.

Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng… Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.

Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.

Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.

Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.

“Các ngươi hãy nghe Ngài”: một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.

Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?

“Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới”: Bạn có tin điều đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

35. Hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông là người đạo đức. Có một bận, y sĩ trưởng phòng giải phẫu cùng với vị phụ tá đến báo tin cho ông biết tình trạng thất vọng của một bệnh nhân, mà họ đã giải phẫn không lâu. Mục sư Vô-đơn-Spring hỏi:

– Bác sĩ đã cầu nguyện cho bệnh nhân được tai qua nạn khỏi chưa?

Vị y sĩ trưởng phòng giải phẫu và y tá mỉm cười kín đáo mà không trả lời. Mục sư Vô-đơn-Spring nhận ra điều đó và nói:

– Nghĩa là chưa. Thôi được rồi, tôi muốn bàn chuyện này với Chúa.

Vậy là trong một giờ liên tiếp, mục sư quỳ sụp xuống trong phòng, ông cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Sau đó đến phòng người bệnh trầm trọng ấy. Vừa thấy ông, cô y tá đã vội vàng nói:

– Đã từ nửa giờ bệnh nhân thấy đỡ hơn.

Vài tuần sau đó bênh nhân lành hẳn. Bác sĩ trưởng phòng giải phẫu đến gặp mục sư và nói:

– Thưa mục sư, tôi sẽ không bao giờ mỉm cười nghi ngờ nữa.

Thái độ của mục sư Vô-đơn-Spring hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng có thể giúp chúng ta hiểu được các sứ điệp Chúa nhật hôm nay.

Tin có nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và sẵn sàng nhắm mắt đưa chân bước vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm với Ngài. Đoạn 12-25 sách Khởi Nguyên kể lại cuộc đời của Abraham và cho chúng ta thấy một khúc rẽ mới trong lịch sử cứu độ. Sau khi loài người phạm tội chặn đứng tương quan tâm tình với Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, Thiên Chúa lại tìm ra mối dây liên hệ mới qua việc tuyển chọn Abraham và khiến ông trở thành cha của một nhân loại mới. Các trình thuật này của tổ phụ Abraham bao gồm hai nguồn truyền thống văn chương khác nhau với cách diễn tả và quan niệm thần học riêng.

– Truyền thống Giavít: biên soạn ở vương quốc miền Nam, thế kỷ IX trước Tây lịch, trong đó Giavê là tên gọi của Thiên Chúa. Truyền thống này luôn coi Thiên Chúa là người đối thoại chân tình với tổ phụ Abraham và với loài người. Soạn giả Giavít dùng thuật hành văn nhân hình để miêu tả Thiên Chúa. Nghĩa là ông cho thấy Thiên Chúa có kiểu cách nói năng và hành xử y như một người. Ngài nói chuyện đối thoại, hoạch định chương trình, ngồi ăn uống với tổ phụ Abraham. Ngài chấp nhận sự tiếp đón của ông chân tình như một người bạn. Ngài sẵn sàng làm mọi sự cho Abraham, ban cho ông một người con ông hằng mong ước, một vùng đất làm gia nghiệp và một dân tộc. Ngài sẵn sàng làm cho ông trở thành danh tiếng, thành tổ phụ của một dòng dõi đông đúc. Sẽ đặt tên cho ông một tên mới, vừa diễn tả sự kiện ấy vừa nói lên sự liên hệ của ông với Ngài. Do đó khi đọc lại các văn bản Kinh Thánh, chúng ta cũng phải khám phá ra tình bạn hữu ấy của Thiên Chúa và mối dây liên hệ thân tình của Ngài đối với chúng ta.

– Truyền thống văn chương tại vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch gọi là Êlohít. Vì trong các văn bản này tác giả gọi Thiên Chúa là Êlohim. Truyền thống này nêu rõ lòng tin và sự sống lòng tin của tổ phụ Abraham hay cũng còn gọi là sự công chính của Abraham. Lòng tin là một thực tại giàu ánh sáng và tương lai, nhưng con người hay nghi ngờ như Ađam, hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã nghi ngờ. Abraham trái lại đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào các lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ ký thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Aman từ đó phát sinh ra tiếng Amen mà chúng ta thường dùng để kết thúc một lời nguyện là động từ “tin” trong tiếng Do Thái, nhưng nó có nghĩa gốc là cậy dựa trên, dựa vào. Tin như thế có nghĩa là chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa và lời Thiên Chúa mà thôi.

16,5-12.17-18 sách Khởi Nguyên bao gồm cả hai truyền thống kể trên. Trình thuật kết thúc với nghi thức cổ xưa của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với tổ phụ Abraham. Hai bên ký kết các giao ước để giữa các thú vật được chặt đôi nhằm khẳng định, bên nào không thực hiện giao ước thì cũng sẽ chịu một số phận như vậy. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người. Tin có nghĩa là đưa ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu biến hình trên núi trong 9,28-36 của thánh Luca.

Đối với dân Do Thái, Môisê và Êlia là hai gương mặt diễn tả tất cả Kinh Thánh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và đem ra thực hành mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài hứa là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn biết thoát ly khỏi những gì ràng buộc ngăn cản chúng ta không cho bước vào cuộc sống thần thiêng sáng láng với Ngài nữa.

Qua biến cố biến hình, Chúa muốn cho ba môn đồ thân tín thấy rằng: sau con đường tiến về Giêrusalem dẫn Ngài tiến đến cái chết trên thập giá, là ánh sáng rạng ngời của cuộc sống. Trong Kinh Thánh hình ảnh cái lều diễn tả cuộc sống vô định nay đây mai đó của dân du mục. Do đó thái độ của Phêrô muốn dựng 3 lều ở trên núi Tabor mà không hiểu sâu hơn nữa có nghĩa là, Phêrô muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với con đường thập giá và khổ đau. Thái độ đó là kiểu cách thiếu lòng tin. Vì đó là một cách tránh né chương trình vào con đường của Thiên Chúa. Thái độ này bị thánh Phaolô gọi là cách hành xử đặc thù của những kẻ thù nghịch với thập giá Chúa Kitô.

Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích. Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.

Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.

 

36. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

TABORÊ – MỘT THOÁNG VINH QUANG THIÊN GIỚI

Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc đang xôn xao về hiện tượng Đức Mẹ hiển dung tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc Giáo hạt Gia Kiệm. Sự thật đến đâu, xin để cho giáo quyền xác nhận. Tuy nhiên, rất nhiều người chứng kiện hiện tượng đã chia sẻ những cảm nghiệm chung như sau:

Nếu ai đã trơng thấy sự kiện thay đổi dung nhan nơi Thánh tượng Đức Mẹ Bạch lâm thì đều mang một tấm lịng yếu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Tất cả những ai đã một lần gặp được khuôn mặt kiều diễm của Mẹ sau nhiều ngày đêm thao thức thì lại thấy trong lịng vang lên tiếng mời gọi đến gặp Mẹ nhiều hơn. Tất cả những ai gặp khuơn mặt thánh thiện của Mẹ thị đều run sợ và nhận ra thân phận tội lỗi của mình để xin sự thứ tha của Chúa và để bắt đầu lại cuộc sống của mình.

Câu chuyện về Đức Mẹ Bạch lâm Hiển dung và những cảm nghiệm về hiện tượng đó có lẽ cũng gợi lại cho chúng ta câu chuyện về biến cố Chúa Giêsu hiển dung cách đây hơn 2000 năm. Vậy thì đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu hiển dung?

– Trước hết, biến cố hiển dung là biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.

Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung các môn đệ có thể khẳng định một cách không sai lầm rằng có thế giới bên kia, và hai vị đại tiên tri đang sống hạnh phúc trong thế giới đó.

– Thứ đến, biến cố hiển dung là biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.

Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: “Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như sơn tuyết”. Rạng ngời đến độ các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tuyệt cú mèo rồi. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều….. Rõ ràng nếu các môn đệ không nhìn thấy vinh quang thần tính của Đức Giêsu thì các ông không thể có những phản ứng như thế. Dù vinh quang ấy chỉ một thoáng thôi cũng đủ làm cho các môn đệ ngây ngất cõi lòng.

– Sau nữa, biến cố hiển dung còn là biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt thì ít là có 2 trong 3 môn đệ đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của 3 môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài”. “Lời Ngài” mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.

Khi tái khám phá những ý nghĩa của biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi điều gì? Chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy chiêm ngắm biến cố hiển dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau. Sau nữa chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua những thử thách đau thương trong cuộc đời này.

 

37. Chúa biến hình – Cao Huy Hoàng

Giáo Hội là Mẹ Thánh Thiện. Phụng vụ trong Giáo Hội là con đường đưa dẫn mọi thành phần dân Chúa vươn đến đích thánh thiện tuyệt đối. Vì thế, khi khai mạc Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội nhắc nhớ tôi về thân phận con người phải trở về với tro bụi, và Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cảnh báo con người phải tỉnh thức trước những cơn cám dỗ để chiến đấu và chiến thắng, thì hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, xây dựng cho con cái Giáo Hội một niềm tin, một niềm hy vọng vững chắc về một tương lai phục sinh vinh hiển. Hạt bụi vô danh kia, chút tàn tro bé bỏng ấy, không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thân phận con người nữa, nhưng chính hạt bụi vô danh ấy, chút tàn tro bé nhỏ ấy, là con đường để con người ta biến hình nên sáng láng rực rở trong một thế giới mà không còn cái goi là thời gian chế ngự.

Đức Kitô mặc khải Thần Tính

Suốt những ngày theo chân Đức Ki tô, trong lòng các môn đệ luôn ấp ủ những vinh hoa trần thế. Đức Ki tô là con nguời thật. Vì thế, họ có quyền nghĩ đến một một Vua Ki tô khôi phục lại giang san, và chính họ, sẽ phải hưởng được một phần vinh quang của Ngài. Nhưng không, hôm nay Đức Ki tô đã cho họ thấy tận mắt dung mạo rực rỡ của Ngài là Con Thiên Chúa thật. Hai bản tính trong cùng một con người, trong cùng một thân xác, mà bản tính Thiên Chúa đã làm cho họ ngây ngất và sung sướng đến mức thánh Phêrô phải thốt lên ” Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm…” mà thánh Luca nhận định là “ông nói mà không biết mình nói gì” (Luc 9,33). Và lúc ấy, chính Thiên Chúa Cha xác nhận:”Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, các ngươi hãy nghe Lời Người” (Luc 9, 35) để cũng cố thêm niềm tin đã được mặc khải.

Nhưng, dung mạo sáng láng ấy chỉ lóe lên một thoáng để xây dựng nơi ba vị tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan một niềm tin chắc chắn vào Đức Giêsu Ki tô là Con Thiên Chúa thật. Ngài đã không mang dung mạo sáng láng huy hoàng ấy vào công cuộc cứu thế, nhưng ngược lại, Ngài mặc lấy dung mạo của con người thấp hèn nhất, đúng như Thánh Vịnh 30 đã nói: ” Tôi trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết- gặp tôi ngoài đường, họ tránh xa tôi. Tôi bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết. Tôi trở nên như cái bình bị vỡ tan.” (Tv. 30, 12-13). Đúng vậy, không lưu lại trên Núi Tabor- nơi Cha Con dạt dào thương mến, không giữ lại sự hiển vinh chói lói- thần tính nguyên sơ của Ngài, Ngài đã đưa các tông đồ xuống núi để đi vào cuộc thương khó vĩ đại nhất, mà cho đến hôm nay, sau hai ngàn năm, không có cuộc thương khó nào, không có đau khổ nào, không có sự trừng phạt nào, không có án tử nào của con người có thể sánh nỗi- cuộc thương khó dẫn đến cái chết của một con người thật-chết thật, tro bụi thật. Nhưng thần tính của Ngôi Vị Thiên Chúa đã phục sinh thân xác hư nát, thành thân xác vinh hiển chói ngời như thân xác mà các tông đồ đã chiêm ngưỡng trên núi Tabor hôm ấy.

Bài học “trở nên đồ vô dụng”.

Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa uy quyền đã trở nên thành phần thấp hèn nhất trong thiên hạ, đã chấp nhận trở thành vô dụng, để cho ý định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện cách hoàn hảo nhất nơi chính “cốt nhục” của Người, Người Con Chí ái. Vì hoàn toàn để cho “Ý Cha thể hiện” nên Ngài đã tuân phục thánh ý Chúa Cha cách triệt để, phó thác hoàn toàn trong tay Cha, Ngài đã trải qua những đau khổ kinh khiếp nhất của đời người, nhờ sức mạnh của sự tuân phục mang tính thần tính là nội lực ở bên trong một thân xác phàm trần yếu đuối, mỏng dòn…

Bài học “trở nên đồ vô dụng” đối với mỗi con người luôn luôn là một bài học khó. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu biến hình thân xác Người, cho tôi một chìa khóa để có thể tiếp thu bài học ấy. Chỉ có lòng khiêm hạ chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong tôi, trong bạn, trong mỗi con người chúng ta, thì chúng ta mới có thể hóa giải thân xác yếu hèn nầy nên thân xác vinh hiển, thân xác phục sinh. Không phải chờ đến lúc da mồi tóc bạc, nằm im bất động trên giường, trả lại cho đời bao nhiêu bằng cấp, bao nhiêu của cải bạc vàng… mới thấy mình là người vô dụng, nhưng phải hiểu là chúng ta đã vô dụng ngay trong mỗi thành công rực rỡ trong đời, vì tất cả đều là sự thể hiện của Thánh Ý Thiên Chúa.

Bài Giáo Lý cuối cùng của đời người Công Giáo: “Tôi tin xác loài người sẽ sống lại”

– Đứng trước thi hài của Mẹ, người con cả thưa với Mẹ: ” Mẹ thân yêu của chúng con, chính qua thân xác nầy mà chúng con đón nhận bao nhiêu ơn lộc của Thiên Chúa, ơn được làm người, ơn được biết Thiên Chúa, được làm con cái thiên Chúa… Vì chính thân xác mẹ đã cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trên đường thương khó với Chúa Giêsu để yêu thương và phục vụ chúng con hết mình. Chúng con tin, thân xác mẹ sẽ vinh hiển sáng láng trong nước Chúa. Nguyện xin Chúa thương tha các lầm lỗi cho Mẹ, và sớm cho Mẹ phục sinh vinh hiển”.

– Một người bạn tôi, Anh Nguyễn Văn Úy, hơn 30 năm tận lực làm ca trưởng ca đoàn Giáo Xứ Hòa Nghĩa, Cam Ranh, đang lâm bệnh nặng, nằm cấp cứu ở Bệnh viện Nha Trang, có thể phải chạy thận để kéo dài sự sống- cách đây vài hôm đã nói với anh em: “Những gì mình đã nỗ lực, đã cống hiến cho Ca đoàn, cho Giáo Xứ, cho gia đình, đều là của Chúa, không có gì của mình cả. Xin Chúa thực hiện tiếp những gì Ngài muốn nơi mình”.

– Chúa Giêsu biến hình, là niềm hy vọng của mỗi người công giáo chúng tôi. Nhưng không hẳn thân xác nào cũng “sống lại và sáng láng vinh hiển” như thân xác biến hình của Chúa Giêsu, vì hạnh phúc ấy, chỉ dành cho những thân xác đã hoàn toàn trở nên “vô dụng” cho Thánh Ý Thiên Chúa, thân xác đã “Nghe và thực hiện Lời Thiên Chúa, thân xác đã tan nát dập vùi vì yêu thương và phục vụ như chính Đức Giêsu Yêu Thương-Phục Vụ. Chính niềm tin và niềm hy vọng biến hình, hạt bụi vô danh kia, tàn tro bé bỏng ấy… không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng, để phải thốt lên giai điệu bi thảm “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…” (Trịnh Công Sơn)

Lạy Chúa Giêsu biến hình, xin cho chúng con biết quên mình, chấp nhận hy sinh để yêu thương và phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân như ý Chúa muốn.

 

38. Những câu chuyện biến hình

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:

Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.

Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?

Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.

Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.” Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”

Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ.”

Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?

Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.

Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.

Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.

Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.

Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”

Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.

Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài”. “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.

Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.

Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.

 

39. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất

XUỐNG NÚI – MẬT ĐẮNG CUỘC SỐNG THÀNH MẬT NGỌT CỨU ĐỘ

Chúa nhật II Mùa Chay Thánh sử Luca đưa chúng ta lên núi Tabor, cùng với ba Tông đồ Phêrô- Giacôbê và Gioan chứng kiến Chúa Giêsu hiển dung, cho thấy- cho cảm nếm chút vinh quang thật của Chúa Giêsu. Phêrô vốn còn nặng cái nhìn trần thế, theo cảm tính đã ‘chớp’ ngay dịp may hiếm có này khi đề nghị dựng ba lều để ở lâu dài trên núi.

Thực ra việc Chúa Giêsu biến hình, tỏ thật vinh quang Thiên Tính vốn có của Ngài, như cách Chúa Giêsu cho nếm ‘mật ngọt’ thật của Thiên đàng để củng cố niềm tin cho các môn đệ, nhất là khi họ sẽ chứng kiến cuộc Tử nạn thương khó của Chúa Giêsu; khi gặp những vấn nạn- đau khổ sau này trong hành trình Loan báo Tin Mừng.

Đau khổ trần gian chẳng là gì cả so với mối phúc Thiên đàng!

Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy rõ, ngất ngây hạnh phúc trước Hồng ân Chúa ban; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa quá, yêu thương anh chị em quá; sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình… nhưng giây phút “vinh quang” này thường ngắn ngủi, chớp nhoáng. Điều này chứng tỏ những an ủi thiêng liêng Chúa ban luôn có và luôn đồng hành cần đủ để củng cố Đức tin. Như biến cố Biến hình trên núi Tabor, chúng thường ngắn ngủi, chớp nhoáng một phần để khỏi xâm phạm đến tự do của ta, một phần tránh cho cho ta sống Đức tin bằng cảm tính.

Cũng như Chúa Giêsu và các Môn đệ, sau khi cảm nếm phúc ân Thiên Chúa đụng chạm đến đời mình, cùng Chúa Giêsu các Môn đệ lại xuống núi. Xuống núi để tiếp tục trực diện với trần thế, để sống theo ý Chúa, sẵn sàng đón nhận chén đắng trần thế trong Thánh ý Chúa.

Và chúng ta, sau những ngày Tết Nguyên đán nghỉ ngơi bên Chúa và bên gia đình, như Chúa Giêsu và các môn đệ, chúng ta lại xuống núi, lại tiếp tục với bao lo toan cuộc sống, tiếp tục trực diện những mật đắng trần gian…

Vấn đề khi gặp gian nan thử thách cuộc sống, khổ đau trần gian ta có nhận ra ý Chúa, có can đảm đón nhận sống theo ý Chúa hay không, kết hợp với Thập giá Chúa Giêsu! Một khi ta nhận ra ý Chúa và sống theo ý Chúa, nhờ Chúa Giêsu thì những mật đắng cuộc sống ấy trở thành mật ngọt Tin Mừng.

Quả thế, biến cố biến hình cho thấy một chân lý: Chúa Giêsu phải trải qua cái chết đau khổ- nhục nhã mới bước đến Phục sinh vinh hiển;Thánh Phaolô nhận rõ: Không có ơn Cứu độ nến không có đổ máu (x.Dt 9,15tt) và Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô. Theo Chúa không có hy sinh, không chịu cố gắng đời Kitô hữu sẽ nhạt nhẽo, vô vị, bế tắc và không cần phải đợi đến đời sau, ta đã thấy hoả ngục ngay tại đời này.

Đừng mơ có thành công mà không chịu cố gắng phấn đấu, không chấp nhận hy sinh. Cố gắng mỗi ngày để chu toàn bổn phận trong gia đình, cuộc sống, để nên người hơn, nên con cái Chúa hơn.

Đức Tân Giáo hoàng Phanxicô trong huấn từ đầu tiên đã nói “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian”[1]

Nhờ Chúa Giêsu – Kitô Tử nạn – Phục sinh, trong Chúa Giêsu tất cả những khổ đau, những mật đắng- chén đắng cuộc đời đều là Hồng ân- đều có giá trị Tin Mừng Cứu độ. Đây chính là Tin Mừng lớn nhất, quan trọng nhất, là giá trị -động lực- mục đích cuộc sống trần thế của con người. Chỉ trong Đôi mắt Đức tin ta mới nhận ra chân giá trị cao đẹp này.

Tin Mừng ở chỗ, chính lúc ta đau khổ là lúc ta đang nên giống Chúa Giêsu, đang cho thấy rõ được cộng tác vào công trình Cứu độ của chính Chúa Giêsu. Một thụ tạo hèn mọn, tội lỗi như ta lại được Chúa mời gọi cộng tác vào công trình vĩ đại nhất của chính Chúa, ta phải thấy là niềm vinh dự, niềm vui lớn… Cảm niệm được điều đó thì đau khổ không còn đau khổ nữa, đau khổ có giá trị Tin Mừng. Trong Đức tin, chính nhờ khám phá Thập giá trong Chúa Giêsu trở nên Tin Mừng Cứu độ, do đó, các Thánh luôn khao khát được khổ đau vì Tình yêu Chúa Giêsu thúc bách.

Điều này thấy rõ thời Giáo hội sơ khai, khi Phêrô và Gioan rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, bị lãnh đạo Do Thái giáo bắt tù, đánh đập những tưởng làm các ngài lo sợ không có dám Loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, ai dè phản tác dụng. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy rõ: bị tù đày, đánh đập… các ngài lại thấy hân hoan vì Danh Chúa Giêsu (x. 6, 40).

Điều này thấy rõ nơi các Thánh Tử Đạo mọi thời của Giáo hội, trong đó có hàng trăm ngàn tổ tiên chúng ta là những dấu chứng sáng rõ nhất cho chân lý Khổ đau- thậm chí khổ đau tột cùng là cái chết trong Chúa Giêsu đã nên Tin Mừng Cứu độ.

Xuống núi– trở về với cuộc sống đời thường, trực diện cuộc đời được coi là bể thẳm ấy, giờ đây nhờ có đôi mắt Đức tin ta khám phá bể thẳm ấy giờ thành biển Hồng ân.

Điểm đáng lưu ý: Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu biến hình khi đang cầu nguyện. Cầu nguyện- kêu xin Lòng thương xót của Chúa là ta đang để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Nhờ ơn Biến đổi này ta mới khám phá mật đắng cuộc sống thành mật ngọt Cuộc đời; sẽ trải nghiệm sống đồng lời Chúa Giêsu: ách của ta thì êm ái, gánh ta nhẹ nhàng.

Xin Chúa gia tăng Đức tin- men Tin Mừng để hành trình theo Chúa- vâng nghe Lời Chúa, nhất là khi trực diện mật đắng trần gian chúng con khám phá Tin Mừng, nhất là trong Năm thánh Từ Bi này.

 

40. Vượt qua những thử thách khó khăn.

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.

Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.

Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.

Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”. Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.

Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.

Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.

Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.

 

home Mục lục Lưu trữ