Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1377263

KINH LẠY CHA

KINH LẠY CHA– Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa

Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: “Abba!”Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.

Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: “Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần”. Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.

Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.

Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.

Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.

“Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày”. Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng” (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ “chúng con”, chia sẻ lương thực với những người đang đói.

“Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con”. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: “Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ”. Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.

“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).

“Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.

“Dụ ngôn người bạn quấy rầy”. Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.

Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: “Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn”. Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C

BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC-  Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp và quý báu khiến lòng người ước mơ khao khát. Ai cũng mong ước có được những giá trị đó nhưng rồi mỗi người cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu những giá trị ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến. Thật đáng tiếc!

Vậy thì tìm đâu ra bí quyết để đạt được ước mơ của mình? 

Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng lượm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật nằm sâu trong rừng. Lối vào kho tàng được che chắn bằng một phiến đá khổng lồ. Khi tên tướng cướp đứng trước khối đá ấy và đọc câu: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm bên trong hang.

Khi bọn cướp đi ra, chúng lại đọc câu thần chú: “Vừng ơi! đóng lại!” thì cánh cửa đá từ từ đóng lại che khuất lối vào kho tàng bí mật.

Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa bí mật và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều châu báu trong kho tàng và trở nên giàu có.

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu “Vừng ơi! Mở ra!” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ mở cho.”

Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ.”

Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba việc đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?

Chúa Giê-su cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục như sau:

Có người kia đến gõ cửa nhà người bạn láng giềng giữa đêm đen và lên tiếng nài xin : “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả.” Từ trong nhà có tiếng đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?”

Thế rồi Chúa Giê-su kết luận: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.”

Với những lời trên đây, Chúa Giê-su nhấn mạnh với chúng ta rằng: Người phàm còn biết đáp ứng lời kêu xin của bạn bè, cho dù trong lòng chẳng muốn, thì huống gì Thiên Chúa là Cha nhân lành, tốt lành gấp trăm lần người cha trên thế gian, lẽ nào Ngài lại không đáp ứng lời con cái nài van.

Theo dòng tư tưởng ấy, Chúa Giê-su nói tiếp: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư?  Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp sao? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Ngài sao?”

Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa tin tưởng nài xin, chưa bền chí kiếm tìm và chưa nhẫn nại gõ cửa đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.

Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.

home Mục lục Lưu trữ