Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1378534
LÀM CHỨNG
Làm chứng
Trong một buổi toạ đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết. Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ, các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài thì Ngài cứ việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu nào?”. Mọi người đều im lặng.
Một lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”. Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ cũng có một yếu điểm nghịch thường mà người ta không thể diễn tả hết được”.
Người ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, đích thực 100% Chúa đã sống lại. Còn chúng ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.
Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.
Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hoá những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con cái Chúa.
Một lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”. Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ cũng có một yếu điểm nghịch thường mà người ta không thể diễn tả hết được”.
Người ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, đích thực 100% Chúa đã sống lại. Còn chúng ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.
Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.
Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hoá những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con cái Chúa.
54. Vì Chúa
Bài đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Đức Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững được lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm là nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các tông đồ đồng môn của ông. Thật may mắn là kể từ thời các tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”. Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”. Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
55. Tiếng gọi
Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.
Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.
Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.
Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.
Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.
Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.
Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.
Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.
Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).
56. Tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ra ngay ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ra ngay ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
57. Tình yêu
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh: Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin “. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu”có hai anh em sinh đôi tên là Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đi đày Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù loà cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù loà ấy nói ngay: “Phải mày là thằng Chơn đó không?”Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù loà ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông hậu”nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. Và rồi đang khi các tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến tám ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu”có hai anh em sinh đôi tên là Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đi đày Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù loà cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù loà ấy nói ngay: “Phải mày là thằng Chơn đó không?”Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù loà ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông hậu”nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. Và rồi đang khi các tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến tám ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!
58. Đừng xoá sổ
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “ôxoáổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xoá sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?”Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi”.
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vặt cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng hội đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng.
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xoá sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?”Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi”.
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vặt cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng hội đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng.
59. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ
Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.
Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.
“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.
Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.
“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
60. Ông ấy không biết mình có sức mạnh như vậy
Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge, một lần đã đọc một bài diễn văn cho một bộ lạc người Da Đỏ ở trên miếng đất cằn cỗi mà đã từ lâu không có một giọt mưa nào. Những người phù thuỷ thổ dân và những người có thể làm cho mưa đã làm những nghi lễ vô ích. Bầu trời vẫn trong sáng và mùa màng sẽ bị mất. Tổng thống Coolidge đã nhìn vào những gương mặt đau khổ và nói, "Các bạn đừng nghĩ rằng tôi ở Washington và tôi không biết về hoàn cảnh sống của các bạn. Đừng nghĩ rằng tôi không khỏi những ưu tư lo lắng. Các bạn đừng nghĩ rằng tôi đã không lo lắng tìm cách để cứu giúp các bạn.”Sau đó, trước cảnh lạ lùng của mọi người, những cơn mây đã kéo đến và một trận mưa rào to đã đổ xuống. Tổng thống đã bị ướt đẫm trước khi ông tìm được chỗ để trú thân. Nhìn những giọt mưa đổ xuống, tổng thống đã kêu lên, "Trời ơi! Tôi đã không biết là tôi có sức mạnh như thế ở trong mình tôi!"
Simon Phêrô đã không biết rằng ông có sức mạnh như thế ở trong con người của ông cho đến cái giây phút ông bắt gặp được Người Lạ ở trên bờ hồ là Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, ông bắt đầu rao giảng không ngừng, không mệt mỏi, hăng say, không sợ sệt gì cả về Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã có thể làm cho người ta cảm thấy mạnh mẽ, cảm động lòng người, chữa các bệnh tật, thay đổi muôn vàn tâm hồn. Thánh Phêrô đã giảng, "Anh em đã giết chết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”(Cv 3:15).
Simon Phêrô đã không biết điều mà ông có trong người. Tuy nhiên, khi giây phút quyết định đã đến, khi Phêrô nhảy xuống thuyền và bơi vào với Chúa Giêsu Phục Sinh, ngài trở thành một Kitô hữu lập dị mà dám nói với Thượng Hội Đồng Do Thái rằng, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Trong chương 5 của sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca nói cho chúng ta truyện Thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước Thượng Hội Đồng của người Do thái bởi vì họ bị tố cáo một số tội, cộng luôn cả tội phá ngục. Thượng Hội Đồng đã ra lệnh cấm các Tông Đồ không được rao giảng về Chúa Kitô Phục Sinh. Các Tông Đồ đã được thành lập theo một tổ chức. Họ biết những điều mình nói sẽ đưa họ đến chỗ nào. Ai cũng phải biết về sự nguy hiểm của kiểu giảng dạy như thế. Thượng tế của hội đồng đã lên tiếng cảnh cáo, "Chúng tôi đã ra lệnh cấm các anh nói về Giêsu, và các anh đã không tuân theo và đã làm cho thành Giêrusalem này nực đầy mùi giáo huấn của các anh.”Thánh Phêrô đã trả lời, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Với lời nói ấy, Phêrô và các Tông Đồ có thể bị giết. Thế nhưng, một người Pharisiêu đã đứng ra và lên tiếng, "...nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quí vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quí vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.”Sau cùng, các Tông Đồ đã được thả về và một lần nữa, Thượng Hội Đồng lại ra lệnh cấm các ông không được rao giảng. Thế nhưng, các Tông Đồ hiểu rằng Phúc Âm Chúa Kitô vượt trên mọi lời đe doạ.
Chúng ta thấy sự so sánh giữa bài thánh thư của Thánh Luca, diễn tả sự gan dạ của Thánh Phêrô đứng giữa Thượng Hội Đồng, và bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, tả lại cảnh Thánh Phêrô đang đánh cá. Thánh Gioan thuật lại cảnh ngộ mà Thánh Phêrô đã trở nên một con người mới. Thánh Phêrô và một số Tông Đồ đang ngồi nghỉ tại bờ sông Tiberia. Chúa Giêsu đã bỏ họ, và họ không biết phải làm cái gì cả. Có lẽ có một số người đã chọc tức họ, "Đó kìa, những người môn đệ của Giêsu Nagiareth. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã chấm dứt. Chuyện gì đã xảy ra với những ước mơ của quí huynh? Sư phụ đâu rồi?"
Những lời nhạo báng mỉa mai đó đã đưa đến kết quả. Thánh Phêrô đã nói lên quyết định của ngài: "Tôi đi đánh cá.”Và những người khác đã đồng thanh, "Chúng tôi cũng đi với anh.”Mọi sự coi như là tan theo mây khói, và họ phải trở về với chiếc tàu đánh cá, chiếc lưới, và những việc làm thường ngày. Tệ hơn nữa, họ thả lưới cả đêm mà không bắt được chút gì cả. Khi trời vừa mới hừng đông, một Người Lạ đã nói với họ phải thả lưới ở mạn thuyền và họ đã bắt được nhiều cá mà họ không thể nào kéo lên nổi.
Thánh Gioan đã nhanh nhẩu nói với Phêrô, "Chính Chúa đó!”Trong chính cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã trở thành một người mới. Không có một cái gì có thể cản trở ông đến với Chúa Giêsu, và ông đã nhanh nhảu nhảy xuống và bơi vào với Chúa Giêsu. Sự trở lại của Thánh Phêrô đã hoàn tất. Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Hãy theo Ta!”và Phêrô đã đi theo.
Chúng ta thấy địa vị của chúng ta và của Thánh Phêrô thời xưa cũng tương tự giống nhau. Sự trung tín hoàn toàn của chúng ta thường bị thử thách. Thiên Chúa phán, "Hãy nói!", và con người nói, "Hãy im!", và chúng ta phải chọn lựa...
Chúa Kitô bị đóng đinh đang nhìn xuống chúng ta với dòng máu ở trong bàn tay, bàn chân, nhưng sự sống từ trong ánh mắt của Ngài, kêu gọi chúng ta sự lựa chọn giữa tình yêu và sự lãnh đạm. Ngài sẽ không để chúng ta mồ côi và đi chỗ khác, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta với bàn tay bị đóng đinh của Ngài. Ngài sẽ không để cho chúng ta dùng thế giới này như là một công viên để chơi, hoặc là một chiến trường. Chúng ta phải chăm sóc nó, nếu không thế giới sẽ bao trùm bằng bóng tối.
Nếu chúng ta chọn Chúa như Thánh Phêrô, có lẽ chúng ta sẽ chẳng được những vinh quang như được huy chương, bằng cấp, học vấn, được báo chí ca ngợi, nhưng là những vết sẹo. "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5:10).
Simon Phêrô đã không biết rằng ông có sức mạnh như thế ở trong con người của ông cho đến cái giây phút ông bắt gặp được Người Lạ ở trên bờ hồ là Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, ông bắt đầu rao giảng không ngừng, không mệt mỏi, hăng say, không sợ sệt gì cả về Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã có thể làm cho người ta cảm thấy mạnh mẽ, cảm động lòng người, chữa các bệnh tật, thay đổi muôn vàn tâm hồn. Thánh Phêrô đã giảng, "Anh em đã giết chết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”(Cv 3:15).
Simon Phêrô đã không biết điều mà ông có trong người. Tuy nhiên, khi giây phút quyết định đã đến, khi Phêrô nhảy xuống thuyền và bơi vào với Chúa Giêsu Phục Sinh, ngài trở thành một Kitô hữu lập dị mà dám nói với Thượng Hội Đồng Do Thái rằng, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Trong chương 5 của sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca nói cho chúng ta truyện Thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước Thượng Hội Đồng của người Do thái bởi vì họ bị tố cáo một số tội, cộng luôn cả tội phá ngục. Thượng Hội Đồng đã ra lệnh cấm các Tông Đồ không được rao giảng về Chúa Kitô Phục Sinh. Các Tông Đồ đã được thành lập theo một tổ chức. Họ biết những điều mình nói sẽ đưa họ đến chỗ nào. Ai cũng phải biết về sự nguy hiểm của kiểu giảng dạy như thế. Thượng tế của hội đồng đã lên tiếng cảnh cáo, "Chúng tôi đã ra lệnh cấm các anh nói về Giêsu, và các anh đã không tuân theo và đã làm cho thành Giêrusalem này nực đầy mùi giáo huấn của các anh.”Thánh Phêrô đã trả lời, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Với lời nói ấy, Phêrô và các Tông Đồ có thể bị giết. Thế nhưng, một người Pharisiêu đã đứng ra và lên tiếng, "...nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quí vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quí vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.”Sau cùng, các Tông Đồ đã được thả về và một lần nữa, Thượng Hội Đồng lại ra lệnh cấm các ông không được rao giảng. Thế nhưng, các Tông Đồ hiểu rằng Phúc Âm Chúa Kitô vượt trên mọi lời đe doạ.
Chúng ta thấy sự so sánh giữa bài thánh thư của Thánh Luca, diễn tả sự gan dạ của Thánh Phêrô đứng giữa Thượng Hội Đồng, và bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, tả lại cảnh Thánh Phêrô đang đánh cá. Thánh Gioan thuật lại cảnh ngộ mà Thánh Phêrô đã trở nên một con người mới. Thánh Phêrô và một số Tông Đồ đang ngồi nghỉ tại bờ sông Tiberia. Chúa Giêsu đã bỏ họ, và họ không biết phải làm cái gì cả. Có lẽ có một số người đã chọc tức họ, "Đó kìa, những người môn đệ của Giêsu Nagiareth. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã chấm dứt. Chuyện gì đã xảy ra với những ước mơ của quí huynh? Sư phụ đâu rồi?"
Những lời nhạo báng mỉa mai đó đã đưa đến kết quả. Thánh Phêrô đã nói lên quyết định của ngài: "Tôi đi đánh cá.”Và những người khác đã đồng thanh, "Chúng tôi cũng đi với anh.”Mọi sự coi như là tan theo mây khói, và họ phải trở về với chiếc tàu đánh cá, chiếc lưới, và những việc làm thường ngày. Tệ hơn nữa, họ thả lưới cả đêm mà không bắt được chút gì cả. Khi trời vừa mới hừng đông, một Người Lạ đã nói với họ phải thả lưới ở mạn thuyền và họ đã bắt được nhiều cá mà họ không thể nào kéo lên nổi.
Thánh Gioan đã nhanh nhẩu nói với Phêrô, "Chính Chúa đó!”Trong chính cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã trở thành một người mới. Không có một cái gì có thể cản trở ông đến với Chúa Giêsu, và ông đã nhanh nhảu nhảy xuống và bơi vào với Chúa Giêsu. Sự trở lại của Thánh Phêrô đã hoàn tất. Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Hãy theo Ta!”và Phêrô đã đi theo.
Chúng ta thấy địa vị của chúng ta và của Thánh Phêrô thời xưa cũng tương tự giống nhau. Sự trung tín hoàn toàn của chúng ta thường bị thử thách. Thiên Chúa phán, "Hãy nói!", và con người nói, "Hãy im!", và chúng ta phải chọn lựa...
Chúa Kitô bị đóng đinh đang nhìn xuống chúng ta với dòng máu ở trong bàn tay, bàn chân, nhưng sự sống từ trong ánh mắt của Ngài, kêu gọi chúng ta sự lựa chọn giữa tình yêu và sự lãnh đạm. Ngài sẽ không để chúng ta mồ côi và đi chỗ khác, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta với bàn tay bị đóng đinh của Ngài. Ngài sẽ không để cho chúng ta dùng thế giới này như là một công viên để chơi, hoặc là một chiến trường. Chúng ta phải chăm sóc nó, nếu không thế giới sẽ bao trùm bằng bóng tối.
Nếu chúng ta chọn Chúa như Thánh Phêrô, có lẽ chúng ta sẽ chẳng được những vinh quang như được huy chương, bằng cấp, học vấn, được báo chí ca ngợi, nhưng là những vết sẹo. "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5:10).
61. Cậy dựa vào quyền năng Chúa.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Sau khi sống lại, việc Chúa hiện ra với các tông đồ đều nhắm một mục đích nào đó, chứ không phải Chúa cứ hiện ra khơi khơi, có hứng thì xuất hiện, còn không thì thôi. Mỗi lần Chúa hiện ra với các tông đồ là mỗi lần Chúa trao ban cho các ông những sứ vụ khác nhau. Theo Phúc âm hôm nay ghi lại thì đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông đồ sau ngày phục sinh. Trong lúc tâm trạng các ông còn hoang mang với những vui buồn lẫn lộn: buồn vì cuộc tử nạn của Thày mình, vui vì Thày mình đã sống lại, hoang mang vì sự hiện diện của Thày mình sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khoả. Xuống thuyền, các ông thả lưới suốt đêm mà không bắt được cá. Ở đây ta phải phục sự kiên nhẫn của các tông đồ. Thả lưới suốt đêm không bắt được con cá nào mà vẫn tiếp tục.
Chính trong lúc các ông bị cụt hứng thì Chúa hiện ra với các ông. Chúa giả vờ hỏi: Sao các con có bắt được gì ăn không? (Ga 21:5). Các ông đồng thanh trả lời: Thưa không (Ga 21:5). Bấy giờ họ chưa nhận ra người khách lạ là Chúa. Và theo đề nghị của người khách lạ, họ thả lưới. Kết quả là mẻ lưới của các ông nặng trĩu đầy cá. Bấy giờ các ông mới nhận ra Chúa. Các tông đồ nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng Chúa, chứ không phải do sự chuyên nghiệp của các ông. Mặc dầu là thuyền chài chuyên nghiệp, hôm nay các ông cũng chịu thua. Mẻ lưới mà các ông kéo lên đếm được một trăm năm mươi ba con cá. Tại sao Phúc âm không ghi con số chẵn 150 con cá cho dễ nhớ mà lại ghi 153 con? Theo thánh Hiêrônimô, một học giả về thánh kinh thì số 153 có nghĩa là các nhà chuyên môn về cá thời bấy giờ biết được có được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá chứ không nhất thiết phải là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩa như vậy, thì Chúa muốn các tông đồ phải đi rao giảng tin mừng cứu độ cho cả thế giới, cho năm châu bốn bể. Như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người sẽ nhận lãnh đức tin sau này.
Bài học mà Chúa muốn dạy các tông đồ hôm nay là các ông phải tuỳ thuộc vào ơn Chúa và quyền năng Chúa. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết phải bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành chương trình cứu độ không tuỳ thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của loài người, nhưng tuỳ thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa phục sinh đã biến đổi các tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi lẩn tránh quân dữ. Chính ông Phêrô còn chối Chúa. Sau khi gặp Chúa sống lại, các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Tông đồ Công Vụ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Cv 5:29). Là chứng nhân các tông đồ phải nói lên cái sứ điệp dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe doạ đến tính mạng.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng phúc âm…. Thiên Chúa hằng hiện diện giữa ta. Chính những khi các tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thày mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường Emau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.
Sau khi sống lại, việc Chúa hiện ra với các tông đồ đều nhắm một mục đích nào đó, chứ không phải Chúa cứ hiện ra khơi khơi, có hứng thì xuất hiện, còn không thì thôi. Mỗi lần Chúa hiện ra với các tông đồ là mỗi lần Chúa trao ban cho các ông những sứ vụ khác nhau. Theo Phúc âm hôm nay ghi lại thì đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông đồ sau ngày phục sinh. Trong lúc tâm trạng các ông còn hoang mang với những vui buồn lẫn lộn: buồn vì cuộc tử nạn của Thày mình, vui vì Thày mình đã sống lại, hoang mang vì sự hiện diện của Thày mình sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khoả. Xuống thuyền, các ông thả lưới suốt đêm mà không bắt được cá. Ở đây ta phải phục sự kiên nhẫn của các tông đồ. Thả lưới suốt đêm không bắt được con cá nào mà vẫn tiếp tục.
Chính trong lúc các ông bị cụt hứng thì Chúa hiện ra với các ông. Chúa giả vờ hỏi: Sao các con có bắt được gì ăn không? (Ga 21:5). Các ông đồng thanh trả lời: Thưa không (Ga 21:5). Bấy giờ họ chưa nhận ra người khách lạ là Chúa. Và theo đề nghị của người khách lạ, họ thả lưới. Kết quả là mẻ lưới của các ông nặng trĩu đầy cá. Bấy giờ các ông mới nhận ra Chúa. Các tông đồ nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng Chúa, chứ không phải do sự chuyên nghiệp của các ông. Mặc dầu là thuyền chài chuyên nghiệp, hôm nay các ông cũng chịu thua. Mẻ lưới mà các ông kéo lên đếm được một trăm năm mươi ba con cá. Tại sao Phúc âm không ghi con số chẵn 150 con cá cho dễ nhớ mà lại ghi 153 con? Theo thánh Hiêrônimô, một học giả về thánh kinh thì số 153 có nghĩa là các nhà chuyên môn về cá thời bấy giờ biết được có được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá chứ không nhất thiết phải là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩa như vậy, thì Chúa muốn các tông đồ phải đi rao giảng tin mừng cứu độ cho cả thế giới, cho năm châu bốn bể. Như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người sẽ nhận lãnh đức tin sau này.
Bài học mà Chúa muốn dạy các tông đồ hôm nay là các ông phải tuỳ thuộc vào ơn Chúa và quyền năng Chúa. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết phải bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành chương trình cứu độ không tuỳ thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của loài người, nhưng tuỳ thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa phục sinh đã biến đổi các tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi lẩn tránh quân dữ. Chính ông Phêrô còn chối Chúa. Sau khi gặp Chúa sống lại, các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Tông đồ Công Vụ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Cv 5:29). Là chứng nhân các tông đồ phải nói lên cái sứ điệp dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe doạ đến tính mạng.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng phúc âm…. Thiên Chúa hằng hiện diện giữa ta. Chính những khi các tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thày mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường Emau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.
62. Sứ mạng truyền giáo – Lm Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trước khi về trời Chúa Giêsu, đã truyền lệnh các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
1. Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: "Chúa đó!". Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em?. Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần (x. Ga 20, 1-9).
Khi nghe Gioan nói: "Chúa đó!" các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy" (Ga 21:15c). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì trối Thầy. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7). Hay: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13,13). Có lòng mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21,18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên Thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần "con có mến Thầy không?", sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.
2. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.
Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của "ba thù". Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm "vườn nho của Ngài".
3. Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm,và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát. Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng...Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi Loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: "hãy theo Thầy" và cùng Thầy lên đường...?
Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
1. Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: "Chúa đó!". Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em?. Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần (x. Ga 20, 1-9).
Khi nghe Gioan nói: "Chúa đó!" các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy" (Ga 21:15c). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì trối Thầy. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7). Hay: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13,13). Có lòng mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21,18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên Thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần "con có mến Thầy không?", sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.
2. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.
Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của "ba thù". Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5, 41).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm "vườn nho của Ngài".
3. Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm,và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát. Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng...Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi Loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: "hãy theo Thầy" và cùng Thầy lên đường...?
Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
63. Đức Giêsu hiện ra ở bờ hồ Tibêria
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.
Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):
a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),
b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),
c) Một nhận xét (14);
2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):
a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),
b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).
3.- Vài điểm chú giải
- Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.
- tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.
- cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.
- Ông Simôn Phêrô... (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.
- đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.
- thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.
- Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.
- Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.
- một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi… Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.
- Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).
- anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.
Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).
- hãy chăm sóc... chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17...), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ[2].
- chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này[3], nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia [4].
Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.
* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)
Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.
Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa[5]. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.
Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.
Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12). Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.
* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)
Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.
Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện. Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ôngchỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng với Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9)[6].
Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).
Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.
Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.
Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).
+ Kết luận
Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.
2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.
3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.
4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.
---------------------------------------------
[1] G. Mlakuzhyil, The Christocentric Literary Structure of the Fourth Gospel, 344.
[2] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, xiii-xxi, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299).
[3] Quyển sách Tân Ước khác dùng từ arnion là sách Khải huyền (29 lần).
[4] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299). C. Rusconi lại cho rằng phải đọc probata ở ngay c. 16 là probation, “agnello”, “agnella” (xem mục từ này trong Vocabolario del Greco del Nuovo Testamento, EDB, Bologna 1997, 287). Đây là quan điểm của Codex Vaticanus, Nestle, Aland Synopsis, Barrett, Bultmann.
[5] Đây là hiện tượng mà các nhà chuyên môn gọi là anagnorisis, cũng là peripeteia.
[6] Bài giáo lý của Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI ngày 24-5-2006. Đây cũng là quan điểm của PIB.
1.- Ngữ cảnh
Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.
Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):
a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),
b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),
c) Một nhận xét (14);
2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):
a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),
b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).
3.- Vài điểm chú giải
- Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.
- tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.
- cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.
- Ông Simôn Phêrô... (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.
- đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.
- thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.
- Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.
- Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.
- một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi… Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.
- Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).
- anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.
Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).
- hãy chăm sóc... chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17...), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ[2].
- chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này[3], nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia [4].
Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.
* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)
Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.
Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa[5]. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.
Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.
Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12). Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.
* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)
Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.
Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện. Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ôngchỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng với Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9)[6].
Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).
Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.
Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.
Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).
+ Kết luận
Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.
2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.
3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.
4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.
---------------------------------------------
[1] G. Mlakuzhyil, The Christocentric Literary Structure of the Fourth Gospel, 344.
[2] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, xiii-xxi, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299).
[3] Quyển sách Tân Ước khác dùng từ arnion là sách Khải huyền (29 lần).
[4] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299). C. Rusconi lại cho rằng phải đọc probata ở ngay c. 16 là probation, “agnello”, “agnella” (xem mục từ này trong Vocabolario del Greco del Nuovo Testamento, EDB, Bologna 1997, 287). Đây là quan điểm của Codex Vaticanus, Nestle, Aland Synopsis, Barrett, Bultmann.
[5] Đây là hiện tượng mà các nhà chuyên môn gọi là anagnorisis, cũng là peripeteia.
[6] Bài giáo lý của Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI ngày 24-5-2006. Đây cũng là quan điểm của PIB.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam