Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 36
Tổng truy cập: 1378569
LÀM CHỨNG CHO LÒNG TỪ BI VÔ BIÊN
Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
36. Khuất tất trong một vụ án “bất thường”
(Trích trong website của Tổng Giáo Phận Hà Nội)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “phải ném đá” thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm…Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lời tuyên án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
37. Người phụ nữ ngoại tình – McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?”.
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?”. Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi”.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này”. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ”.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của mình phía sau, và có một bước khởi đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi. Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức Người đối xử với người phụ nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình. Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế mình, trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại. Không người nào có lòng thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này, trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với người câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử dụng người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của Người giống như của một bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án. Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi. Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi, thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót đối với người đồng loại.
“Hãy cứ để cho ai không phạm tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để có được câu nói đó” (Oscar Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.
38. Tha thứ và sửa đổi
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh ta, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại ra trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói: Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng: Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói: Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ? Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối. Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói: Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói: Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Xem ra mọi người đều có tội ít nhiều. Thế nhưng, những kẻ có tội lại hay kết án nhau. Nhiều vụ án bất công, kẻ xử án cấu kết với kẻ có tội và xử cho tại ngoại, còn kẻ vô tội lại phải chịu tội đau đớn. Nhiều kẻ ác lợi dụng địa vị và thế lực gây khổ cho người hiền, ức hiếp người vô tội. Luật sĩ và biệt phái lợi dụng quyền hạn của mình xử án bất công. Họ bắt người thiếu phụ phạm tội ngoại tình và định ném đá còn kẻ tòng phạm thì được tại ngoại. Hơn nữa, họ còn dùng chị làm con chốt thí để gài bẫy âm mưu hại Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài: theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy , Thầy dạy sao? Nếu Ngài nói tha thì họ nói Ngài làm trái luật Môsê, nếu nói không tha thì Ngài đã làm ngược lại điều Ngài dạy: phải có lòng nhân từ, khoan dung, tha thứ. Chúa Giêsu biết rõ sự nham hiểm của họ, nhưng Ngài không kết án họ mà giúp cho họ suy nghĩ, đánh động lương tâm mọi người: Ai không có tội thì ném đá chị này trước đi. Không một ai dám cầm hòn đá nữa, họ buông tay bỏ hòn đá rơi xuống chân mình rồi lặng lẽ bỏ đi từng người một, từ người luống tuổi đến kẻ nhỏ nhất. Chỉ còn lại một người vô tội còn đứng đó nhưng không bao giờ cầm hòn đá ném vào ai. Ngài nói với chị phụ nữ: tội con đã được tha, con về bình an và đừng phạm tội nữa. Đấng tốt lành vô cùng lại không muốn kết án ai, còn những người tội lỗi lại hay muốn kết án anh em để che đậy sự nham hiểm xấu xa của mình.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ một điều: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội ta phạm không có nghĩa là Người dung túng cho tội lỗi, nhưng Người muốn cho chúng ta có cơ hội đứng dậy, sửa đổi bản thân mình. Không có ai ghét tội lỗi cho bằng Thiên Chúa, nhưng Chúa không vì thế mà ghét bỏ con người tội lỗi. Ngài phân biệt rõ ràng giữa tội lỗi và con người. Tội lỗi thì đáng ghét nhưng con người thì đáng thương. Chính tội lỗi làm con người mất tự do, khổ sở, nhưng con người vì yếu đuối và thiển cận nên nhiều khi bị ma quỷ lừa gạt. Vì vậy, Chúa Giêsu đã không tiếc mạng sống mình, liều mình cứu con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.
Ai lỡ phạm tội mà có lòng thống hối trong niềm trông cậy nơi Chúa Giêsu sẽ được tha thứ, được miễn cho hình phạt đời đời. Chúa Giêsu đã không kết án chị phụ nữ ngoại tình nhưng cứu chị thoát khỏi cái chết trong gang tấc, rồi Ngài tỏ lòng khoan dung: không ai kết án chị ư, tôi cũng vậy. Chị hãy về và “từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay đừng phạm tội nữa là điều quan trọng nhất. Có lẽ chị phụ nữ đã thấm thía hậu quả của tội lỗi mình. hậu quả của tội là cái chết nhục nhã đau đớn, không mấy ai thương tiếc, bởi vì những kẻ giết chị nhân danh luật mà làm. Thế nhưng vận mạng chị đã đổi khác nhờ vào ơn cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa. Chị đã biết trông cậy và tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa và được ơn giải cứu.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu luôn đối xử nhân từ và tỏ lòng xót thương. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho kẻ biết ăn năn và ban ơn cứu độ. Vậy trong mùa chay này, chúng ta hãy chạy đến Người, thú nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết sửa đổi. Chắc chắn Chúa sẽ không kết án nhưng nói lời tha thứ, tạo cơ hội cho chúng ta được đứng lên làm lại cuộc đời, quyết sống cuộc đời mới trong tình thương của Chúa và mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
39. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy: “Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát nhân và ngoại tình”. Ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi tiếng là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
- Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa trình vấn đề lên Thiên Chúa.
- Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu: “Như thể Ngài không nghe họ nói gì”. Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của họ.
- Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông, sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi mắt của Ngài”.
- Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ viết trên đất”. Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái như sau: “Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá trước!”. Chữ vô tội chẳng những có một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn làm như bà này đã làm”. Mọi người đều im lặng, và những người tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: “Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: “thưa không”. Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.
- Quan niệm của họ về thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định. Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó”.
Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người khác.
- Biến cố này cho thấy cách sống động thái độ thô bạo của họ đối với dân chúng.
Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm tính của con người thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục đích.
Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về Chúa Giêsu.
- Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành đủ để đoán xét người khác.
- Một nguyên tắc khác không kém quan trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh thoảng chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và luôn luôn an ủi”. Khi một bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên hệ” nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể làm gì để hoà giải những hậu quả của lỗi lầm?”. Nói cách đơn giản, ta phải dành cho người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho, khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.
- Điều quan trọng chúng ta phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Trong một cách Chúa Giêsu đã không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: “Đừng lo, không sao đâu!”. Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái độ của Chúa Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:
- Một dịp thuận tiện thứ hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, như thể Người đến bảo người đàn bà ấy rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc lấy mình”. Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến một người, không những đã sống như thế nào, mà còn có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.
- Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
- Một niềm tin vào bản tính con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa”. Điều lạ lùng và phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện với một người từng làm ác, Ngài không bảo “ngươi thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa”. Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành thánh nhân.
- Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên Chúa.
40. Tha thứ trong thinh lặng
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.
41. Lòng Chúa khoan dung
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh tẩy?
Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc ăn mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.
Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà cáo giải, bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà già. Đúng thế, thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt, người ấy đã đập bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết được truyền thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung. Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy, với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam